Bài đăng phổ biến

Thứ Sáu, 8 tháng 9, 2017

CẢM ƠN SỐ PHẬN - Vũ Trọng Nghĩa

          Vào những ngày đầu tháng 9 này cách đây đúng nửa thế kỷ - năm 1967 - tôi bắt đầu cuộc hành trình Số phận, hay như thường nói, theo sự sắp đặt của Số phận - bắt đầu gắn bó cuộc đời mình với tiếng Nga và nước Nga.
Số phận? Đúng thế, bởi chuyện là thế này: Năm 1967, sau khi tốt nghiệp phổ thông, (không hiểu vì lí do gì, thời chiến chăng?) chúng tôi không phải thi vào đại học mà được tự chọn theo nguyện vọng. Mode thời đó là nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa. Nhưng thay vì đi theo mode trên, tôi đã chọn theo ý thích của mình - Đại học Ngoại ngữ. Số là thời cấp 3 tôi rất thích và học khá tốt món ngoại ngữ Trung văn (tôi đã thi tốt nghiệp môn tiếng Trung thay cho món hóa mà tôi dốt, và đã từng trao đổi thư từ với một học sinh cấp 3 Nam Ninh, Trung Quốc). Nhận giấy báo Đại học Ngoại ngữ, tôi háo hức phấn chấn lên đường mang theo những tài liệu sách vở tiếng Trung đang có. Đại học Ngoại ngữ khi đó sơ tán về Cấp Điền, Cấp Thủy, huyện Gia Lương, Hà Bắc.
Nhưng, vâng, nhưng buổi tựu trường đầu tiên của tôi thay vì háo hức, phấn chấn bỗng trở thành hụt hẫng, băn khoăn khi nhận thông báo: Sinh viên Vũ Trọng Nghĩa vào lớp 2N67, tức là lớp tiếng Nga thứ 2/4 của khóa 1967! Cái gì thế này? Ủa pú tủng à! Tôi đã học và chỉ biết tiếng Trung thôi, tiếng Nga một chữ không hay một từ không biết, học thế nào đây? học thế nào đây? Nhưng khoa tiếng Trung khi đó trường chưa triệu tập mà quay về tận Thái Bình quê tôi trong thời chiến đó đâu dễ! Và tôi đã đành chấp nhận sự sắp đặt này của Số phận, bắt đầu gắn bó với tiếng Nga từ đây. Thú thực, sau này tôi đã thầm cảm ơn Số phận nhiều vì đã chuyển đặt tôi sang tiếng Nga (những năm 60 đến đầu 90 của thế kỷ trước chỉ tiếng Nga là rất hữu dụng, còn tiếng Trung và cả English đều hạn chế). Trong 43 năm học tập, công tác, có đến 30 năm tôi gắn bó với tiếng Nga, trong đó 5 năm học tiếng Nga, 20 năm là phiên dịch (cho đoàn chuyên gia Liên Xô xây dựng và vận hành công trình đường ống kho cảng xăng dầu B12, cho Cố vấn Liên Xô tại Bộ Vật tư; cho ba khóa học quản lí kinh tế tại Liên Xô, cho các đoàn sang Liên Xô công tác...) và cuối cùng là 5 năm làm Tham tán Thương mại ĐSQ Việt Nam tại LB Nga. Đương nhiên, cùng với tiếng Nga là sự gắn bó với đất nước Liên Xô - Nga, với những người bạn Nga.
Khóa N67 vừa kỷ niệm 50 năm ngày tựu trường (1967-2017). Bao kí ức trong nhiều năm qua, từ những tháng ngày đi học đến những tháng năm lăn lộn trên công trường đường ống xăng dầu..., đến các chuyến công tác, học tập tại Liên Xô - Nga, bao kỷ niệm với những người bạn học và bạn người Nga đang cuồn cuộn trào về trong tôi. Xin được mượn trang FB này để ghi và nhớ lại một vài thời điểm trong cuộc hành trình đó.

NĂM CHỤC NĂM RỒI Ư? - Ngô Anh Thơ


Kỷ niệm 50 năm trở thành sinh viên Đại học Ngoại ngữ. Các thầy cô, các bạn tham dự khá đầy đủ thật vui, thật nồng ấm tạo nên một không khí chan hoà cởi mở hiếm có.
Anh Tho Ngo xin tặng các thầy cô, các bạn Nga 67 một cảm xúc chân thành mộc mạc khi nghĩ 50 năm, một nửa thế kỷ, một phần lớn cuộc đời mình đã vù cái trôi qua đến ngỡ ngàng.

NĂM CHỤC NĂM RỒI Ư?
Ngô Anh Thơ
Mới đấy giờ đây năm chục năm
Ngỡ mình vừa qua tuổi trăng rằm
Cấp Điền nơi ấy ta nhập học
Mà giờ tất cả hóa hoa râm.
Một thời kỷ niệm khó mờ phai
Lán nứa thầy cô từng giảng bài
Học tập chúng em nguyện cố gắng
Ghi nhớ từng lời, cố đừng sai.
Cơm bếp tập thể chẳng đủ no
Ăn xong như thể đã về mo
Được thêm miếng cháy là hỉ hả
Nào dám thèm chi miếng thịt to.
Sống ở nhà dân đâu phải lo
Cô bác cho ta được tự do
Họp hành, học tập không quản ngại
Vô lo, vô nghĩ, chẳng so đo.
Quyết tâm nắm được "Chìa khoá vàng"
Mở kho kiến thức rộng thênh thang
Từng bước, từng bước, ta vươn tới
Làm chủ cuộc đời đầy hứng khởi.
Ta đã về đây, Nga 67 ơi
Gương mặt thân quen, nét rạng ngời
Tay bắt mặt mừng sao đằm thắm
Nghĩa nặng tình sâu nhớ một thời.
Hàng năm gặp mặt ta vẫn vui
Nhưng không giấu nổi nỗi ngậm ngùi
Nhớ thương các bạn đi xa mãi
Đã từng cùng ta lúc buồn vui.
Năm chục năm cuộc đời sang trang
Chúng ta bước sang tuổi nhuốm vàng
Mùa Thu ai đó còn vương vấn
Bỏ lại đằng sau những nấc thang.
Khoá Nga 67 của ta ơi
Mãi mãi ta thêm mến yêu Người
Mong ngóng thường niên ngày gặp mặt
Để được trao nhau những nụ cười.

Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

Bài thơ "Khóa 67 mình" của Thày Lê Đức Mẫn tặng ngày Hội Khóa 2017


KHÓA 67 MÌNH
Tặng các em sinh viên Khóa 1967-1970
Khoa Tiếng Nga, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội
Lê Đức Mẫn, II-2017

Khóa 67 mình được học chữ đầu tiên
Là “Golod” (голод) có nghĩa là “đói kém”.
Thương các bạn tuổi đời chưa kịp lớn,
Mẹt ngô rang nuôi cả mấy năm trường.

Những năm ấy sao mà lạnh thấu xương,
Lại học chữ “kholod” (холод) là “rét buốt”.
Chăn không có, áo quần thì vá đụp,
Lớp học nhà tranh, cái gió cũng chen vào.

Mình học “temno” (темно) là “tối”, phải không nào?
Chỉ có cây đèn chai thức cùng con chữ.
Rồi cũng nên người, tối trời nhưng sáng dạ,
Nhờ ánh đèn le lói đó theo ta.

Cái năm 67 này “chiến tranh” khắp gần xa,
Chữ “voina” (война) học đúng ngày oanh kích.
Rồi bạn bè tòng quân, có người về không kịp.
Nào ta cúi đầu cho một phút thêm thương.

Chữ “tyazhelo” (тяжело) nay đọc vẫn bàng hoàng,
Thày dịch nghĩa là “gian nan, khổ cực”.
Ốm vàng mắt vẫn mò lên lớp học,
Đường lội ngang đùi không bỏ tối liên hoan.

Chữ “druzhba” (дружба) hồi ấy cứ phân vân,
“Tình bạn” là gì, nửa đời sau mới biết.
Thày đọc cho nghe bài thơ Nga da diết:
“Mẩu bánh mì tôi bạn cũng chia đôi”*.

“Lyubit” (любить) là “yêu”, sao đọc chẳng nên lời?
Ngây ngô quá chia hoài ngôi thứ nhất.
Trăm lần gặp, cả trăm lần tim đập,
Đầu bạc rồi, lại gặp, vẫn bâng khuâng!

67 chúng mình ơi! Thương những tháng năm
Toàn đói rách và chiến tranh nghiệt ngã,
Nhưng tình bạn, tình yêu là tất cả,
Là ánh đèn luôn đỏ giữa tim ta.

* Thơ Prokofiev

Chủ Nhật, 16 tháng 7, 2017

Các bạn N67 đến thăm anh Bái

Ngày 16-7, một số bạn N67 đã đến thăm anh Bái, người anh cả của khóa Nga văn 67. Một số hình ảnh:

 

 
 
 
 

 
 

 

Thứ Ba, 4 tháng 4, 2017

NGÀY ẤY VÀ CHÚNG TÔI

Nguyễn Công Minh
Đã hơn 9h tối.
Sau mấy tiếng đồng hồ ngồi sau bàn học dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu. Đánh vật với đống bài vở và cái nóng ngột ngạt bởi đống đay phơi được nắng bốc lên từ góc nhà. Đám khách không mời mà đến cứ vo ve nơi lỗ tai và lao vào tiêm chích điên cuồng y như bọn nghiệm hút thời nay vậy. Tôi lững thững tản bộ theo con đường lát gạch nghiêng trong xóm. Đêm cuối tháng không trăng nhưng sao thì nhiều vô kể, cứ thi nhau nhấp nháy như khêu gợi. Những cơn gió ngoài đồng từ mạn Lôi Châu, An Phú, An Trụ thổi về mát rượi pha trộn mùi ngai ngái, thum thủm của nước ao tù đang được ngâm đay. Ao ở đây nhiều vô kể, nhà nào cũng có một cái ao. Có lẽ đây là đặc thù của vùng quê chiêm trũng rất hay bị ngập lụt này. Nhà dân ở nơi đây, giầu thì có nhà xây sân gạch, nghèo thì nhà tranh vách đất nhưng ngôi nhà nào cũng phải có nền cao từ 1 mét đổ lên. Người dân đã phải đào ao lấy đất làm nhà. Đây có lẽ là chứng tích của những cái ao nhân tạo san sát đang hiện hữu.
Ngoài 2 vụ lúa chủ đạo, người dân nơi đây còn trồng xen canh: hành, tỏi, ngô, khoai lang và các loại rau mùa đông. Mấy năm gần đây còn có thêm cả nghề trồng đay xuất khẩu nữa. Bởi thế trong thời bao cấp khó khăn là vậy mà nhà nào cũng vẫn được no đủ.
Tới mùa thu hoạch đay làng như mở hội. Nhà nhà chặt và chế biến đay. Người người náo nức tham gia thu hoạch đay. Nhà ai có chồng con làm công chức nhà nước thì hoặc xin nghỉ phép, hoặc tranh thủ ngày thứ bảy chủ nhật về giúp đỡ gia đình. Chúng tôi những sinh viên ở trọ trong nhà dân tất nhiên không là ngoại lệ. Cũng phải giúp gia chủ tuỳ theo khả năng và điều kiện của mỗi người. Thu hoạch đay là một công việc cực nhọc. Từ tinh mơ người dân đã phải ra đồng chặt đay để tránh cái nắng thiêu đốt ban ngày. Đay chặt xuống dài trên 2m được phạt lá, bó thành từng bó rồi đưa lên xe ba gác hay gánh trên vai mang về nhà. Xe ba gác thì ít, việc vận chuyển chủ yếu bằng sức người. Dân họ quen, cứ mỗi người 2 bó, dùng đòn tre xiên ngang phần gốc đay rồi gánh trên vai. Phía ngọn được buộc lại và bị kéo lôi trên đường tạo lên những vệt ngoằn nghoèo như như rắn bò rất vui mắt. Còn chúng tôi những người "trói gà không chặt", thì chỉ hoặc là bám càng xe ba gác hay vác trên vai một bó đay nhỏ xíu mà đã nhìn thấu ông bà ông vải rồi.
Công việc chế biến đay cũng vất vả vô cùng. Nhà nào cũng chọn những nơi thoáng mát dưới các tán cây cho công việc này. Chế biến đay có 2 cách: đay sau khi được bóc khỏi thân phải cạo sạch vỏ rồi đem phơi khoảng 3-4 nắng là được. Cách thứ 2 thì nhàn hơn: vỏ đay sau khi được bóc ra chỉ việc bó lại thành bó rồi đưa xuống ao ngâm. Khi thịt đay đã thối rữa,người ta giũ để lấy phần tơ đay trắng như cước đem phơi khô là có thể đưa đi cân được. Nước ao vốn dĩ trong vắt do tù đọng và bèo tây ăn hết màu tưởng chừng như sạch sẽ lắm, nhưng cứ để ý một chút thì thấy xung quanh ao toàn hố xí, chuồng trâu bò, chuồng gia súc thì ai mà biết được thứ nước ấy nguy hiểm đến mức nào. Ấy thế mà bây giờ vào mùa ngâm đay nước các ao còn bị chuyển màu đen như mực và bốc mùi hôi thối khiến các loại cá trắng trong ao đều dần dần theo nhau chết ngạt.
Xin lỗi các bạn nhé. Tôi hơi lan man rồi, nhưng thiết nghĩ cũng nhân dịp được nói lên nỗi khổ cúa chúng tôi những người sinh viên thời sơ tán.
Đến gần một bờ ao nọ thấy có đèn sáng, thấp thoáng nhiều bóng người. Chỉ nghe qua cũng nhận ra giọng mấy thằng bạn nhà bên. Họ đều là dân Hà Nội và Thành nam chính hiệu.
- Các cậu làm gì vậy?
- Cứ nhìn xem rồi khắc biết. Thằng H đáp lời tôi.
- Cậu có thích tham gia thì xắn tay cùng làm với bọn tớ. Thằng V gạ gẫm.
- Nếu ăn được thì kha-ra-sô ngay. Đang đói đây.
- Không những ăn được mà ăn vào còn chữa được bệnh "cam quýt, bụng ỏng đít beo của ông nữa đấy". Thằng B cầm đèn đứng bên giải thích thêm.
- À, mình hiểu rồi! Nói tới đây mọi người chắc cũng đã đoán ra được món ăn mà bọn tôi đang chuẩn bị là gì rồi nhỉ?
"Chả cóc" đấy mọi người. Thú thực tôi là một thằng nhà quê chính hiệu, thế mà cũng không thể nghĩ ra nổi cái "phát minh vĩ đại" mà các bạn người thành phố này đang bày ra, cho dù đã đôi lần được mẹ cho ăn món này để chữa bệnh lúc còn nhỏ.
Vùng quê nào mà chả có cóc phải không mọi người? Nhưng ta chỉ bắt gặp cóc nhảy ra khỏi hang lúc chiều tối để đi kiếm mồi hay những khi trời mưa to, mà cũng chẳng nhiều nhặn gì. Chứ cóc ở xứ này lại nhiều vô kể. Về mùa lũ, nước dâng cao ngập bãi bên triền sông tới 20-30m. Các sinh vật cư trú nơi này đều phải dạt vào bờ đê. Nào chuột, nào rắn, nào cóc nhái ...
Lại nói, mùa lũ về bờ đê bên sông nơi đây bỗng nhộn nhịp hẳn lên. Trên các điếm canh luôn có lực lượng dân quân túc trực để theo dõi mực mước sông. Các nhà dân trong làng cũng mang bớt đồ đạc, trâu bò, lợn gà... dựng lều bạt cát cứ mỗi nhà một khúc để phòng bất trắc. Tiếng trống, tiếng loa, tiếng người náo động suốt ngày đêm. Lại có cả hàng quán mọc lên nữa chứ.
Các bạn tôi đã không bỏ qua mớ thực phẩm quý giá đó là những chú cóc vàng ruộm và rất béo bởi chúng sẵn mồi ăn và toàn những thứ sạch sẽ chứ không gầy gò đen đúa như cóc ở những vùng quê khác. Để tránh sự nhòm ngó của dân, nhóm người chúng tôi mang theo bao tải, đèn pin, xuất hành khi trời đã nhá nhem tối. Chỉ mấy chục phút đã hốt được cả chục ký cóc mang về.
Ngày trước được nghe người lớn quê tôi kể rằng, chả cóc hay thịt cóc băm viên nấu cháo là món ăn bổ dưỡng cho những trẻ còi cọc,chậm lớn, bụng ỏng đít mòn... nhưng người ta chỉ biềt dùng 2 chân sau của cóc thôi. Cóc bị cắt 2 chân sau được thả ra rất nhiều con vẫn sống và mang thương tật suốt quãng đời còn lại.
Các bạn Hà thành của tôi có cách chế biến riêng của họ.
Tôi hỏi mình có thể làm được gì.
- Cứ ngồi xuống đây tao dạy.
V nói như ra lệnh. Nói đoạn nó lôi từ trong bao ra một chú cóc bự. Chú cóc dãy dụa trên tay, nó dùng con dao rạch một đường từ đầu chú cóc dọc theo sống lưng. Bằng một thao tác thuần thục nó kéo "soạt" một cái con cóc đã bị lột toàn bộ da, lộ ra mớ thịt trắng hồng cùng các sợi gân trắng đan xen. Mọi người biết không: V rất to cao đẹp trai nhưng tay trái bị dị tật bẩm sinh từ nhỏ thế mà nó thao tác cứ thoăn thoắt. Tôi nhìn nó làm cứ như bị thôi miên vậy. Nó tiếp tục mổ cóc vứt bỏ đi phần ruột, gan, trứng.
- Cái này thì phải giữ lại.
Vừa nói nó vừa bứt ra từ bụng cóc 2 chùm màu vàng có hình giống như chùm hoa của những cây rau dừa vẫn nổi tên mặt nước ao tù.
- Mỡ đấy, quý lắm đó.
V nói. Nhìn sang 2 cái tô bên cạnh thấy đã được khá nhiều. Tôi ước tính cứ chừng 50 con cóc là phải được cả bát ăn cơm thứ mỡ này chứ chẳng chơi. Mỡ cóc rất đặc biệt là khi cho vào chảo rán sẽ ra toàn mỡ mà phần tóp thì gần như không có.
Cóc sau khi mổ được cắt bỏ đầu, 4 bàn chân. Chỉ một thoáng mấy chục chú cóc đã được làm sạch sẽ. Chừng nửa chậu thịt ngon lành đã sẵn sàng. Chúng tôi mang về sân giếng nhà rửa và đưa lên thớt băm nhuyễn. Nêm hành, ớt, tỏi, nước nắm... Chưa rán mà đã thấy bốc mùi quyến rũ rồi. Trong bếp B, H, N đã nổi lửa rán mỡ. Rổ lá lốt đã được rửa sạch để sát bên. Cứ như có sự bài trí ngẫu nhiên vậy, cóc đã nhiều thì lá lốt cũng như rừng. Chúng mọc hoang dã và có thể hái được từ bất kì đâu. Thịt cóc được viên tròn cuốn lá lốt rồi cho vào chảo mỡ đang sôi. Chỉ vài phút thôi đã chuyển màu vàng ruộm và thơm nhức mũi, khiến chúng tôi không thể cầm lòng. Thế là vừa rán chúng tôi vừa thưởng thức tại chỗ. Miếng chả nóng giòn tan ngọt ngào nơi đầu lưỡi. Ngon đến kỳ lạ! Một phần cũng do cơn đói đang hành hạ. Cái bánh mỳ lắp chuông luộc cùng bát canh suông rau muống của bữa ăn chiều chắc đã di chuyển khỏi bao tử từ lâu rồi. Anh chủ nhà đã đi ngủ thấy chúng tôi ồn ào vui vẻ cũng thức giấc đi ra hỏi:
- Chúng mày có món gì mà thơm thế?
Thằng H gắp mấy miếng chả nóng hổi lên mời anh thay câu trả lời. Anh vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon và hỏi nguyên liệu cùng cách làm. B nhanh nhảu giải thích. Anh chủ phấn chấn vô cùng:
- Bái phục! Thế mà ở đây chẳng ai nghĩ tới cá. Ngày mai tớ sẽ phổ biến để mọi người cùng làm thử.
Chưa dứt câu thì anh đã vội đính chính:
- À mà thôi. Hãy bí mật cái đã, chứ ai cũng biết thì còn kiếm đâu ra cóc nữa. Phải không các cậu?!