Bài đăng phổ biến

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2012

Một số bài thơ của Thày Lê Đức Mẫn gửi tặng các bạn cựu sinh viên Khoa Nga


               TÌNH BẠN

Ba lăm năm trước tự nhiên đến đây,
Tự nhiên gặp nhau, nhìn nhau lạ hoắc.
Lạ nhau áo quần, lạ nhau nét mặt,
Lần đầu rụt rè hỏi nhau cái tên.
          Thày giáo bước vào, cả lớp đứng lên.
          Thày cũng hiền thôi, … thế mà … cứ tưởng…
          Bài học cũng hay, … thế mà … cứ tưởng…
          Biết bao chuyện đời … cứ tưởng … hóa ra…
Thời gian âm thầm, ngày qua… ngày qua…
Một dạo “anh-tôi”, một thời “cậu-tớ”,
Lúc vui “mày-tao”, lúc đùa “chồng-vợ”,
Tưởng đùa thế thôi,… ngờ đâu… ngờ đâu…
          Suốt ngày miệt mài… từ… ngữ… cú… câu…
          Suốt ngày dịch xuôi, suốt ngày dịch ngược,
          Suốt ngày văn chương, nói… nghe… viết… đọc…
          Biết bao nhiêu ngày quên nghĩ đến nhau.
Khóa học trôi vèo, còn đâu… còn đâu…
Xa bạn, xa thày đã là sự thật.
Bỗng nhiên ngộ ra: cái còn… cái mất…
Tình bạn là gì – bỗng nhiên ngộ ra.
          Ba lăm năm rồi, nửa đời trôi qua,
Nay lại gặp nhau, ngờ ngợ… ngờ ngợ…
Vẫn tếu như xưa “mày-tao”, “chồng-vợ”,
Nhìn lên tóc nhau – nghèn nghẹn đầu môi.
Tình bạn hóa ra… là anh… là tôi,
Là một phần thương kèm thêm chút nhớ,
Là nơi không còn tiền tài, địa vị,
Là nơi chỉ còn “chồng-vợ”, “mày-tao”.
                                                Tặng các em sinh viên Khoa Nga N 67
                                                             LÊ ĐỨC MẪN
                                                                   III/2002

MỪNG TẾT HỌC TRÒ

Tết Giáp Thân này rét dài, rét đậm,
Các em đến thăm, thày cảm động vô cùng.
Thày thì vụng về, các em thì đông,
Chỉ có ấm trà và khay bánh mứt.
Ta nâng chén trà thay cho lời chúc,
Nhớ thơ xưa “bình minh nhất trản trà”,
Thày chúc các em “lương y bất đáo gia”.
Ta hiểu nhau trong hương trà ngào ngạt.
Bây giờ thày mời các em ăn mứt,
Hãy cứ tự nhiên như ở nhà thôi.
Món mứt đầu tiên thày muốn đem mời,
Thơm thảo tình quê gọi là “long nhãn”.
Thày chúc các em mắt càng thêm sáng,
Như mắt rồng để có “trí nhân” cao.
Lời Nguyễn Trãi hô “thay cường bạo” thuở nào,
Chuyện đức độ chớ bao giờ quên nhé.
Món thứ hai chẳng có gì mới mẻ -
Món “mứt sen” đằm thắm vị quê hương.
Thày nhắc các em câu chuyện “gần bùn
Chuyện trong sạch chắc em nào cũng nhớ.
          Món thứ ba mời giữa ngày lạnh giá –
Món “mứt gừng” nóng rát cả toàn thân.
Hãy đừng quên cả “muối mặn” phàm trần,
Chuyện chung thủy đâu phải là chuyện nhỏ.
Món “hạt dẻ cười” nhà nào cũng có
Là món thứ tư thày tiếp các em.
Dễ dàng thôi, một nụ cười duyên
Cho cuộc đời này sức xuân dào dạt.
          Thày không mời các em ăn kẹo ngọt.
          Chuyện “mật mỡ” xưa cụ Trạng dạy rồi.
          Thày kiệm lời chỉ nói vậy mà thôi.
          Ta lại nhấp chén trà chúc thọ.
Thôi, các em về, kẻo mưa dầm, rét đổ.
Cho thày gửi lời thăm tới mẹ cha.
Lúc nào buồn vui hãy nhớ chén trà,
Nhớ mấy món sơ sài nhân dịp Tết.
                             LÊ ĐỨC MẪN
                             30-01-2004

MÓN QUÀ ĐẦU XUÂN

Xin tặng mọi người một câu chuyện nhỏ:
Một người sớm mai mỉm cười trước gương.
Trời bỗng thêm xanh, bạn bè thêm thương.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.

Sách xưa dạy rằng lo âu là khổ,
Quẳng gánh lo đi vui cuộc đời này.
Hãy cười trước gương vào lúc sớm mai,
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.

Có ai không qua cuộc đời dâu bể,
Yêu khổ đường yêu, tài khổ đường tài.
Hãy cười trước gương vào lúc sớm mai.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.

Ai chẳng qua cầu trở trời, trở gió,
Mải chuyện làm ăn, tóc đã thôi đen.
Buổi sáng soi gương và hãy cười lên.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.

Người xưa dạy: cười với đời trước đã,
Rồi cuộc đời cười lại với ta sau.
Buổi sáng soi gương hãy tập cười lâu.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.

Món quà của tôi – một trang giấy nhỏ,
Gửi tặng mọi người nhân dịp đầu xuân.
Xin tâm sự rằng sáng nay trước gương
Tôi đã uống xong mười thang thuốc bổ.
                                        LÊ ĐỨC MẪN                   
                                        01-01- 2004

НОВОГОДНИЙ ПОДАРОК

Это мой подарок всем – рассказ похвал достойный:
Человек однажды утром перед зеркалом стал улыбаться лишь один.
Вдруг заметил он, что небо синее и мир спокойный.
Понял он: улыбка – самый лучший витамин.

Всем из книг уж видно, что раздумья – настоящее несчастье.
Выплесните чашу полную страданий. Это худшая из всех картин.
Улыбайтесь перед зеркалом, сказав, что счастье
В том, что поняли: улыбка – самый лучший витамин.

Кто же не испытывал падения и взлеты жизни.
Этому любовь, талант – страшнейшая из всех причин.
Улыбайтесь утром перед зеркалом, об этой забывайте неприязни.
 Помните: улыбка – самый лучший витамин.

Кто же не страдал от прихоти природы.
Год от года и терял он силы и грустил от появления седин.
Улыбайтесь утром перед зеркалом и говорите, чтобы
Все узнали, что улыбка – самый лучший витамин.

Нас отцы и братья учат так: улыбнись жизни прежде.
Жизнь улыбнется тебе, лишит тебя морщин.
Улыбайтесь утром перед зеркалом, держитесь вы в надежде,
Что все будет славно, ведь улыбка – самый лучший витамин.

Ну, подарок от меня – так малая страница со стихами.
Вы, пожалуйста, примите как мой самый искренний привет.
Говорю, что утром перед зеркалом сегодня, между нами,
Принял я доз десять витамина. Колебания, конечно, нет.

          Стихи и перевод на русский ЛЕ ДЫК МАНА

EM CÒN NHỚ HAY EM ĐÃ QUÊN
(nhạc và lời Trịnh Công Sơn, nhớ về Sài Gòn.
 Tôi viết lời Nga đ hát chơi)

Ты помни, не забывай
Наш Сайгон в летние дни.
Те улицы не забывай,
Где всю ночь деревья спят,
По вечерам идут дожди.

Ты помни, не забывай,
Наш сосед заходит к нам,
Приглашая нас на чай.
Ты его не забывай.

Ты от нас уж далеко.
Знаешь ты, как тяжело.
Мы тебя помним всегда,
И разлука нам горька.
                   Русские слова ЛЕ ДЫК МАНА

HÓA THÂN
 (Quảng Nam Online)
Thứ sáu, 28 Tháng 11 2008 20:47

                 Hóa thân
Thày kể em nghe câu chuyện mặt trời
Cái nắng theo mưa hóa thành cây cối
Nụ cây âm thầm nghe ong bướm gọi
Một buổi mai hồng tự biến thành hoa.
Thày kể em nghe câu chuyện con suối xa
Cứ ôm ấp nước hóa thành sông biếc
Sông ôm bầu trời hóa thân thành biển
Nghe gió vỗ về biển hóa ra mây.
Thày kể em nghe câu chuyện của thày
Ngọn đèn xuyên đêm hóa thành giáo án
Viên phấn trở mình hóa ra bài giảng
Quyển sách sang trang thành ngôi sao xanh.
Có người ra đi hóa thành con tem
Các em hóa thân thành ra đất nước
Thày cũng hóa thân mỗi giờ mỗi phút
Thành một phần tâm thức của từng em.
                  LÊ ĐỨC MẪN
Ngân vang trong một âm điệu trữ tình, Hóa thân của Lê Đức Mẫn là bài thơ về người thày giáo và nghề dạy học với tất cả tình cảm và sứ mệnh cao đẹp. thày kể em nghe câu chuyện..., câu thơ mở đầu như một lời tâm sự, đã chuẩn bị cho người đọc một cách cảm nhận bài thơ Hóa thân trong mối liên hệ với thực tiễn dạy và học của con người. Đạt tới các sắc thái tình cảm và ý nghĩa rất lớn của nhân cách và công việc của thày giáo được kể thật hàm súc, bài thơ Hóa thân gợi lên trong cảm thụ của người đọc niềm xúc động chân thật và sâu sắc.
Thầy kể em nghe câu chuyện mặt trời/ Cái nắng theo mưa hóa thành cây cối/ Nụ cây âm thầm nghe ong bướm gọi/ Một buổi mai hồng tự biến thành hoa.  Những tín hiệu tu từ được Lê Đức Mẫn sử dụng khá thành thục, giá trị hiệu dụng của sự nghiệp trồng người ấm sáng như ánh nắng mặt trời, tươi xanh như cây cối và đẹp như hoa lá. Với thủ pháp nghệ thuật này, Lê Đức Mẫn tiếp tục khắc họa phẩm chất đạo đức và năng lực sư phạm của người thày giáo: thày kể em nghe câu chuyện con suối xa/ Cứ ôm ấp nước hóa thành sông biếc/ Sông ôm bầu trời hóa thân thành biển/ Nghe gió vỗ về biển hóa ra mây. Một cách tự nhiên, trong sự thụ cảm của người đọc sáng dần lên ý nghĩ về quá trình khôn lớn, trưởng thành của bao nhiêu thế hệ học trò theo sự dạy dỗ, vun đắp tình cảm yêu thương của thầy, cô giáo. Lê Đức Mẫn đã dùng các động từ chỉ sắc thái tình cảm âu yếm của con người để xây dựng linh hồn của tứ thơ này - ôm, ôm ấp, vỗ về -  và điều thú vị hơn cả là ở đây, hình tượng người thày giáo ẩn trong sự hình thành của các thực thể tự nhiên nên có tầm vóc rộng lớn.
Trong những câu chuyện đang được Lê Đức Mẫn kể bằng thơ ấy, hình tượng người thày giáo tương ứng với khách thể thẩm mỹ và đã trở thành chủ thể thẩm mỹ của khổ thơ giàu âm điệu tình cảm xúc động: thày kể em nghe câu chuyện của thầy/ Ngọn đèn xuyên đêm hóa thành giáo án/ Viên phấn trở mình hóa ra bài giảng/ Quyển sách sang trang thành ngôi sao xanh. Sự hóa thân của người thày giáo bộc lộ thật rõ trong những câu thơ đi thẳng vào tâm hồn người đọc khá chân phương. Ở đây, hình tượng người thày giáo sáng lên trong ánh đèn soi trang giáo án, dưới ngôi sao xanh gom ánh sáng từ những trang sách dạy chữ, dạy làm người. Đặc biệt, viên phấn trở mình là một hình ảnh đẹp về sự truyền thụ kiến thức của người thày giáo đạt hiệu ứng nghệ thuật sâu xa là gợi lên tình cảm thánh thiện, trong đó có lòng biết ơn “Chữ tốt gieo trong người/ Nở ra đời bát ngát” (Hoài An).
...Các em hóa thân thành ra đất nước, sự chuyển tiếp bên trong của tình cảm mà người thày giáo dành cho học trò đã trao cho Lê Đức Mẫn phong cách sáng tác thiên về những ngữ nghĩa mang âm điệu trìu mến kết hợp với giọng thành thực tin tưởng, quý trọng. Trong mối liên hệ với mục đích sư phạm của người thày giáo, ý nghĩa rèn luyện của học sinh, Lê Đức Mẫn đã khái quát được giá trị cao quý nhất của mối quan hệ dạy và học. Đất nước - sự hóa thân đẹp nhất mà học trò có thể làm được sau bao nhiêu cố gắng tiếp thu và thực hành những điều thày giáo dạy bảo. Được hình thành dưới tác động của đối tượng sáng tác và tư liệu hiện thực là người thày giáo hối nhân bất quyện (dạy người không mệt mỏi), bài thơ Hóa thân là một tác phẩm thơ ca của niềm tin của người thày giáo đối với học trò của mình trong quá trình đào tạo, trong đời sống và trong tương lai của đất nước. Niềm tin ấy không ngoài hiện thực học trò sẽ trở thành những con người đem tài năng và đạo đức phục vụ nhân dân, xây dựng và đưa đất nước mình sánh vai cùng các quốc gia hùng cường trên thế giới. Góp tâm sức chuẩn bị cho sự hóa thân ấy của học trò, làm nên hiện thực ấy của đất nước, người thày giáo tận tụy vì nghĩa lớn là truyền đạt tri thức, uốn nắn nhân cách giúp học trò nên người có ích. Vì lẽ sống ấy, thày cũng hóa thân mỗi giờ mỗi phút/ Thành một phần tâm thức của từng em.
                                                       NGUYỄN BỘI NHIÊN
                                                 (xem trang mạng: Lê Đức Mẫn - Google)


LÊ THĂNG 258
Tâm trạng: Vui vẻ
Đăng ngày: 03:41 28-01-2010
Thư mục: Tổng hợp
Quan trọng
Nay xếp lại đống giấy tờ mới ngỡ ngàng thấy lại bài thơ của thày dạy tiếng Nga năm xưa. thày tên là Lê Đức Mẫn. thày trước đây nguyên là giám đốc của trung tâm dịch thuật và công chứng bên đại học ngoại ngữ. Bài thơ mình đọc nhiều lần rồi, càng đọc càng thấy xúc động về hình ảnh những người thày tâm huyết, hiểu trò, thương trò hết mực.
Êkip dạy tiếng Nga năm đầu tiên (gọi là năm dự bị) cho bọn mình tại ĐHGT Hà Nội bao gồm thày Ngọc Hùng (trước đây là phó hiệu trưởng trường đại học ngoại ngữ) Cô Thư (vợ thày Hùng) thày Vị (trước đây là trưởng khoa Nga đại học ngọai ngữ) và thày Lê Đức Mẫn.
Ngày trước ĐHGT (sau khi mời được các thày cô dạy) đã rất tự hào vị có thể mời được những người thày có uy tín hàng đầu về tiếng Nga trong nước như vậy. Các thày cô cũng đã từng đào tạo tiếng Nga cho các vị như TBT Nông Đức Mạnh khi ông sang Nga học. Hiện tại ai cũng tuổi cao lắm rồi.
Sắp về VN mình tự cảm thấy xấu hổ với các thày cô vì cho đến hiện tại tiếng Nga của mình vẫn kém quá. Các thày dạy đã có thương hiệu, duy chỉ có trò là lơ đễnh học hành.
Riêng về thày Mẫn là một người rất giỏi, ông không được đào tạo bài bản bên Nga nhưng nói và dịch tiếng Nga thì như người bản xứ. Ông là đồng tác giả dịch thuật cuốn Những người thích đùa đầu tiên tại VN (của Azit Nexin nhà văn Thổ Nhĩ Kì) chắc nhiều bạn đã đọc.
Mình chép lại toàn bộ bài thơ của thày Mẫn (có cả phần tiếng Nga nhưng mình chỉ đưa lên phần tiếng Việt). Bài này thày nói thày viết khi chia tay với sinh viên bên ĐHDL Phương Đông hay Đông Đô gì đó. Cũng là nỗi niềm chung đối với từng lớp sinh viên đã học qua thày:

THÀY TRÒ TÔI

Thày trò mình dắt nhau qua mấy mùa hoa:
Hoa dâu da ngỡ ngàng phơn phớt trắng
Tưởng dễ quên mà hương hoa thầm lặng.
Nhập hồn chua vào quả đến say lòng.

Rồi hoa trạng nguyên rực rỡ ngang đường,
Cái mũ trạng đỏ au phơ phất gọi.
Mùa thi đến, cả cuộc đời rực chói,
Cứ nôn nao náo nức khắp sân trường.

Ngẩng đầu lên, hoa phượng đỏ chang chang.
Cả khóa học cháy vèo trong sắc lửa.
Thế là hết chia tay là thế đó!
Hoa rụng rồi,sắc đỏ vẫn còn nguyên

Các em trong lòng thày, thày bên các em.
Hoa bằng lăng nở lúc nào không biết.
Nhắm mắt lại vẫn cái màu da diết,
Tím một chiều biền biệt lúc xa nhau

Cái Thắm ngồi bàn đầu, cái Ngọc cứ lau chau.
Cậu Hoàng Vân rụt rè không dám nói.
Vớ vẩn thế, mà giờ sao nhức nhối
Những Quỳnh, Quyên, Hằng, Phúc với .... vân vân...

Đã có một ngày thày giận các em,
Có lúc các em có điều để bụng,
Thôi xí xóa! Giận hờn thì cứ giận
Mà thương thì... trăm giận đổ ra sông

Gậy “Như ý” này của Tôn Ngộ Không
Dĩ bất biến ứng vào vạn biến.
Quê hương còn gian nan, cuộc đời còn lận đận,
Thày tặng mỗi em một chiếc để lên đường.

Thày cũng là người, cũng khóc, cũng buồn thương.
Thày xin các em vòng “Kim cô” thay mũ,
Để đau đáu cứ mỗi mùa hoa nở
Giữa sân trường lại ngó: “Các em ư?”.

Lê Đức Mẫn
20-06-2005
(Tôi tình cờ thấy bài này trên mạng. Tôi cóp lại và thêm bản tiếng Nga để bạn nào thích thì đọc chơi và góp ý cho tôi.)

РАССКАЗ ПРЕПОДАВАТЕЛЯ

Все четыре года мы цветов четыре рода замечали:
Беленькие зауза неприметные, чуть ароматные.
Их забыть легко ли? Нет, покоя нас те ягоды не дали,
Опьяняют душу как нельзя сильней, ведь кисловатые.

А цветение второе первый доктор, такова вот кличка.
Алые лепестки как будто манят всех вас тут как тут.
Время сессии экзаменов настало и студент как спичка.
Ясно, что волнение охватило весь институт.

Нет нет да и мы поднимем голову, цветы хоафыонгви видно.
Дни студенческие якобы сожглись дотла на их огне.
Это всë и это показало, наше расставанье близко,
Но цветы хоафыонгви опадают, красный цвет охран вполне.

Ну давай оглянемся, тогда мы друг от друга неразлучны,
Не заметили, что будет день, когда цветëт бангланг везде.
Хоть закрыв глаза, мы всë же видим лиловый знак разлуки,
Что напоминает о прощанья недалëком тихом дне.

Помнить буду Тхам за первой партой, Нгок, кто мило суетлива,
Вана, парня тихого, застенчивого пуще девушки.
Эх, пустяк какой, увы, теперь меня терзает торопливо,
Да ещë Куен, Куинь, Ханг, Фук и другие однокурсники.

Были дни, когда я почему-то вами недоволен.
Были дни, когда утаивали вы уныние своë.
Ну, давай со всем покончим. Разум наш к тому вполне способен.
В реку зло выплëкивать мы будем, чтобы было лишь добро.

Я хотел бы в день прощанья каждому из вас подарок сделать -
Палочку-всевыручалочку, как из легенд, волшебную.
О стране гораздо бедной и о жизни трудной надо думать,
Помогать народу ею и давать всем силу дивную.

Человек-то я земной, умею горевать и плакать тоже.
Я хотел бы получить от вас терновый дар-венец,
Чтобы мучиться всегдашней жгучей памятью о вас, похоже,
Во дворе нередко первых встречных спрашивать “не вы ль ко мне?“.

Перевëл ЛЕ ДЫК МАН


CÔ GIÁO TÔI
(tặng một cô giáo Nga)

Cô giáo ngồi đối diện với tôi,
Kể chuyện nước Nga những ngày trứng nước.
Ngoài đường tuyết bay gió hun hút buốt,
Ở trong này ấm êm.

Cô kể chuyện tháng Mười, kể chuyện chiến tranh,
Những binh đoàn xông lên, những người ngã xuống.
Chuyện cô kể là chuyện đời có thật,
Chuyện tôi nghe là chuyện thần tiên.

Sau lưng tôi là nước Nga đói rách, ưu phiền,
Là tiếng súng gầm lên quyết sống.
Trước mắt tôi một con người như nắng,
Giọng nói như chim.

Có gì ngỡ ngàng như thể khó tin,
Giữa giá rét năm xưa với căn phòng ấm cúng,
Giữa lửa đạn đầy trời với con người nhỏ nhắn,
Giữa khói pháo cay nồng với nước hoa thơm.

Tôi đến đây từ đất nước Việt Nam,
Nghe chuyện thế đêm về không ngủ được.
Cứ trăn trở cùng câu thơ thao thức:
"Như trong lòng bão tố có bình yên" (*)

(*) Thơ Lermontov

LÊ ĐỨC MẪN

МОЯ УЧИТЕЛЬНИЦА
(Посвящаю моей бывшей русской учительнице)

Предо мной моя учительница,
Сказывающая о прошедших днях тугих.
Во дворе метель, и колет вихрь как спица,
А в зале воздух всё блажен и тих.

Вот Октябрь, мол, вот и воин,
Вот войска в атаку, кто-то вот погиб.
Сказ её весь правда - всяким ценен,
То, что слушал я - вся сказка прошлых лет.

За моей спиной - Русь бедная, лихая,
Где снаряды грохотали за спокойный быт.
Предо мной - учительница обоятельная,
У кого красивый лик и голос, что и мёд.

Что со мной случилось? Нечто спутанное
Между колющим былым и ангельским лицом,
Между бомбами и залом преуютным. Что такое?
Между порохом и существом благим.

Я приехал из далёкого Вьетнама.
После встреч бессоница была густой.
Вся душа преполнена услады гама
Лермонтова - "Будто в бурях есть покой".

Перевёл на русский ЛЕ ДЫК МАН

CHÂN TRỤ

(Trận quyết đấu giữa Chelsea và M.U. tranh giải Cup C1 năm 2008 phải phân định bằng đá luân lưu.
Trời mưa. John Terry, đội trưởng Chelsea đã ngã, bóng đập xà ngang ra ngoài, dẫn đến thất bại của Chelsea).

Tôi ngồi xem trước màn hình.
John Terry cúi đầu chạy.
Tôi quát: - Này mưa to đấy!
Terry không ngoái đầu nghe.

Tôi nhìn bước chạy Terry
Nước tung lên hình bom nổ.
Tôi quát: - Này, sân trơn đó!
Tôi và Terry xa nhau.

Đầu lao tới, chân theo sau.
Kìa, chấm phạt đền trước mắt.
- Chân trụ đâu rồi? - Tôi quát.
John nào biết tôi là ai.

Mưa trên màn hình vẫn rơi.
Cỏ trên màn hình vẫn ướt.
- Hỏng rồi! Thế nào cũng trượt.
John đâu có nghe lời tôi.

Chân phải đã vung lên rồi.
Chân trái chưa tìm chỗ đứng.
Tiếng bình luận viên tức ngực:
- Terry ngã rồi! Terry…!

Bóng dội xà ngang bay ra.
Terry vẫn ngồi thảng thốt.
- Chân trụ hỏng rồi! - Tôi quát.
Dường như Terry có nghe.

Điều này tôi hơn Terry,
Biết chân trụ là chân trái.
Cái chân ngỡ là rất phải
Oai hùng, nhưng ra gì đâu.

Tóc tôi giờ bạc trên đầu,
Mới biết mình là chân phải.
Lặng lẽ vợ mình bên trái.
- Chân trụ đâu rồi, Terry?

LÊ ĐỨC MẪN
7/2008

BIỆT LY

“Biệt ly, nhớ nhung từ đây” (*)
Bài hát tưởng như hát cho người khác,
Trong lời ca có tiếng rơi xào xạc
Chiếc lá khô heo hút cuối mùa đông.

“Đưa người ta không đưa qua sông”, (**)
Cái nghĩa biệt ly bây giờ mới biết.
Câu thơ ấy cứ như là ta viết,
Khi bỗng nghe tiếng sóng ở trong lòng.

Trường cũ giờ này vẫn nắng dênh dang,
Chỉ có lớp học trò là đổi khác.
Các thày vẫn thế thôi, tóc thêm phần bạc,
Tiếng trống trường ngơ ngác vẫn như xưa.

Dường như có ai gọi trường trong mơ,
Cho người “Phương Đông” nhớ người tứ xứ.
Thôi đừng hỏi cho mắt già bớt ứa,
Biết đến hôm nao chúng nó mới thăm trường.

Rồi ta cũng phải quen với cuộc đời thường,
Phải quên vợi cả mình đi để sống.
Đàn rùa con quên cả bờ cát nắng,
Đại dương kia rồi, lạch bạch chúng ra đi.

Gà mẹ lại sinh một đàn gà ri,
Lại đá cầu trong sân, lại ăn quà giữa lớp.
Nhưng sợ lắm, có một ngày bất chợt,
Nao nao lòng người cũ nhớ người xưa.

Thôi, viết thế thôi, viết nữa là thừa.
Các em giữa hộ thày một kho sách vở.
Khi cần đến, gọi “Vừng ơi! Mở cửa!”
Chắc có thày thấp thoáng ở bên trong.

Thày giữ hộ các em kho kỷ niệm trong lòng,
Góc hy vọng màu xanh, góc tình yên sắc đỏ.
Rồi có lúc nhớ một ngày xưa cũ
Thày cũng gọi “Vừng ơi!” – chắc thấy các em về.

Tặng các em trường “Phương Đông” ngày ra trường.

----------
(*) Bài hát của Dzoãn Mẫn
(**) Thơ Thâm Tâm

LÊ ĐỨC MẪN
01 - 10 - 2002

TẤM BẰNG TỐT NGHIỆP

Tấm bằng này như đoạn đường bến sông,
Thày đưa em đến đây rồi em đi tiếp nữa.
Thày phải quay về thôi, lại chuyến đò dang dở.
Phía trước tấm bằng rộng mở cuộc đời em.

Tấm bằng này như cửa khải hoàn môn,
Phía đằng sau có mồ hôi và nước mắt.
Phía đằng trước nghe như là tiếng hát,
Gọi em hoài, hãy dấn bước đi lên.

Tấm bằng này là chiếc nhẫn tìm duyên,
Thày làm vốn cho em, em mưu cầu hạnh phúc.
Món quà nhỏ thôi, một tấm bìa vuông vức,
Như lòng thày vuông vức thế, nghe em!

Tấm bằng này chỉ viết có tên em.
Tên thày ở đằng sau không ai nhìn rõ chữ.
Cốt sao em nên người, còn thày thì khỏi sợ,
Hạnh phúc vốn lặng thầm, đâu lộ ở nơi tên.

Tấm bằng này là một lá bùa thiêng,
Thày làm phép cho em trước con đường vạn dặm.
Câu thần chú “xin vì đời…” thiêng lắm.
Phút băng ngàn, vượt mặn nhớ đem ra.

Tấm bằng này là khúc hát chia xa,
Thày đã hát một phần, phần sau em hát nốt.
Nhưng thôi em… dở dang mà lại tốt.
Ta lặng hát trong lòng, khúc hát sẽ theo ta.

LÊ ĐỨC MẪN

CÓ LÚC TÔI NHẦM

Dũng, Thúy, Ngọ, Vinh đâu, đâu những Long, Cư…
Đâu những người tôi quen, đã một thời duyên nợ.
Nhớ tự ngày xưa sân trường xao xác lá,
Nhớ ngày hè về ve lả những trưa say.

Tuổi học kèm tuổi yêu như gió kèm mây,
Các em vào trường, hành lang giăng tiếng hát.
Rồi tuổi làm ăn, tuổi vợ chồng bất chợt
Cuốc các em đi, cỏ dại lút sân trường.

Giờ các em đâu, ai xa, ai gần,
Đứa nào đông con, đứa nào lương thấp.
Cũng có em tôi nhìn còn nhớ mặt,
Có đứa đã chìm trong những chấm vân … vân…

Ấy thế mà có lúc cứ bâng khuâng,
Khi danh vọng, tiền tài vô nghĩa hết.
Lòng chỉ nặng mối tình đời da diết:
Các em càng xa, nỗi nhớ thêm gần.

Hóa ra ngày xưa có lúc tôi nhầm -
Nhất quỉ nhì ma - khổ ơi là khổ!
Giờ thèm lắm có một ngày xưa cũ,
Được ngồi cùng cái lũ … nhất … nhì … ba…

LÊ ĐỨC MẪN

CÂU ĐỐ MỘT VẦN

Đố câu đố gì, đố không phải đố.
Đố câu đố gì học trò phải nhớ.
Đố câu đố gì mẹ cha nhắc nhở.
Đố câu đố gì bạn bè khuyên nhủ.
Đố câu đố gì nếu quên là dở.
Đố câu đố gì có thày không đố.
Đố câu đố gì mới nghe không tỏ.
Đố câu đố gì càng già càng rõ.

Đố câu đố gì không đố mà đố.
Đố câu đố gì “giáng xong là đổ”.

LÊ ĐỨC MẪN
(không thày đố mày làm nên)

THIÊN ĐƯỜNG CỦA TÔI

Thiên đường này là bốn bức tường vôi,
Tấm bảng trên cao và ghế bàn trên bục.
Bình thường thôi, mấy ngọn đèn trắng đục,
Một dãy bàn dài ngay ngắn bên trong.

Tôi suốt đời ngồi đây cùng với tháng năm,
Cùng với các em, chúng ta là tất cả.
Không thề thốt, nhưng mà yên lặng quá,
Dưới ánh đèn trăm ánh mắt trầm tư.

Những cuốn sách dày ở giữa chúng ta.
Trang sách mở, những thiên thần đứng dậy.
Hào quang lung linh, sao mà trang trọng vậy,
Hương trầm bay ngào ngạt khắp nơi nơi.

Bỗng ào ào sấm sét và xối xả mưa rơi.
Ta thoát xác nơi đây. Đất trời tinh khiết quá!
Ta bay lên trong thiên đường trí tuệ,
Cả thiên hà chữ nghĩa ở xung quanh.

Ngày mai có em nào trong số các em
Từ thiên đường này lại bước vào trang sách.
Lại một lớp người xin vào đây thoát xác,
Lại ào ào sấm sét với mưa rơi.

Thiên đường này là bốn bức tường vôi.
Tôi ngồi đây suốt một đời lặng lẽ.
Bình thường thôi mà sao yêu đến thế
Tấm bảng … ngọn đèn … bàn ghế ở bên trong.

LÊ ĐỨC MẪN

CHUYỆN CON ONG

Có những ngày tôi thấy những con ong
Bay lạc đến đập đầu vào cánh cửa.
Rơi xuống đất lại bay lên lần nữa,
Lại đập đầu, rơi xuống, lại bay lên.

Ong qua đời trong miệng kiến bâu đen.
Không về tổ, sợ làm ô uế tổ,
Thiêng liêng quá là cuộc đời ong thợ -
Sống vì đời, đến chết vẫn quên.

Tôi cứ bận lòng những chuyện lăn tăn,
Cứ vướng víu những kiếp đời bé mọn,
Cứ đem kể cho học trò những chuyện
Chẳng ra gì, chẳng biết có ai nghe…

LÊ ĐỨC MẪN

CHUYỆN THƯỜNG THÔI

Muốn đi tìm cuốn sách ở trên cao,
Tôi phải ngước nhìn lên chút ít.
Chỉ vậy thôi. Giữa tầng cao chật hẹp
Cuốn sách cần đã hiện giữa tầm tay.

Lại cần thêm cuốn nữa. Tính sao đây?
Tôi phải kiễng chân lên chút đỉnh.
Cuốn sách náu như ông già thiền định
Bỗng trở mình rũ bụi bước ra luôn.

Lại vẫn cần một cuốn sách cao hơn.
Tôi lại phải vươn tay mà với lấy.
Tưởng rất khó mà nhẹ nhàng thế vậy.
Tưởng xa vời mà sách đấy, gần thôi.

Chuyện cuộc đời là vậy, bạn tôi ơi!
Ngước mắt, kiễng chân, vươn tay phía trước.
Cái rất khó mà sao ta đạt được?
Chỉ dướn mình đôi chút nhẹ nhàng thôi!

LÊ ĐỨC MẪN


CÂU CHUYỆN CUỐI CÙNG

Thày tôi hấp hối buổi tàn đông
Lá trút, mây giăng, gió não nùng.
Chúng tôi cả lũ ngồi canh giấc,
Nghe chuyện thày tôi - chuyện cuối cùng.

Chuyện rằng dưới đáy biển mù khơi
Có con trai há miệng ăn mồi.
Trai đâu biết trời đang cuộn bão,
Sóng dựng, non nghiêng, cát dập vùi.

Một hạt cát lọt vào miệng trai
Sắc như dao cạo, nhọn hơn gai.
Xót xa mà đẩy không ra được,
Đau đớn mà kêu - biết thấu ai.

Trai lặng lẽ một đời chịu đựng,
Ngày qua ngày tiết dịch bao quanh,
Cho hạt cát đỡ phần sắc nhọn,
Cho bớt đau, bớt xót trong lòng.

Chất dịch ấy ngày đêm cứng lại,
Sáng long lanh như ánh ban mai.
Trai đâu biết ấy là hạt ngọc
Dâng cho đời sau những chua cay.

Thày đã đi rồi giữa tiết đông
Để lại trong tôi chuyện cuối cùng.
Đời thày nhang nhác đời trai ấy.
Hạt ngọc thày trao - sáng lạ lùng.

LÊ ĐỨC MẪN
20-XI-2006

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2012

Bạn Dẩn



BẠN DẨN
Ngô Anh Thơ 
Chuông điện thoại reo. Nhấc máy trả lời, nghe không rõ hỏi xin lỗi ai ở đầu dây thì nghe hình như nói là Luận đây. Suy ra thì đúng hơn vì dịp đó hội 8G lớp phổ thông của mình đang hẹn nhau gặp mặt thể theo nguyện vọng của thầy giáo chủ nhiệm Hoa Thế Đán yêu quý của chúng mình mà mình và Dung được phụ trách công việc hậu cần. Luận là một cô bạn cùng lớp 8G ở mãi bên Gia Lâm. Chắc là Luận gọi nên mình vồn vã chào, hỏi thăm sức khỏe thì nghe thấy tiếng trả lời “Mình đang sắp chết đây”. Ngạc nhiên quá mình bảo “Cậu đùa đấy à”, thì người ở đầu dây bên kia bảo” Thật đấy, mới đi Trung Quốc chữa bệnh, sau về 108 và bây giờ thì về nhà”. Mình bảo sao cậu không báo cho các bạn để mọi người đến thăm, chia sẻ động viên. Người đó nói báo cho Hồng Liên rồi. Đến đây thì mình mới vỡ lẽ ra đó là Dẩn, một cô bạn học cùng đại học từ thời ở Cấp Điền, Cấp Thuỷ, Gia Lương, Hà Bắc mà bây giờ đổi tên là Dẫn, thay dấu hỏi thành dấu ngã chắc để mọi người khỏi nghĩ đến cái nghĩa không hay của từ này. Ngày xưa các cụ đặt tên thường tránh tên hay, tên đẹp để cho dễ nuôi mà.
Chân ướt chân ráo từ khắp mọi miền của Tổ Quốc vượt qua bom đạn lũ học trò vừa tốt nghiệp phổ thông cấp III đến tập trung ở Lôi Châu, Thuận Thành, Hà Bắc để học Đại học Ngoại ngữ. Đầu tiên mình được xếp vào học Tiếng Trung Quốc, có lẽ vì Phòng Đào tạo thấy kết quả học Tiếng Trung Quốc ở phổ thông của mình cũng khơ khớ chăng. Thực lòng mình chỉ thích học Tiếng Anh nên liều mạng đến gặp các thầy ở phòng Đào tạo xin chuyển sang Khoa Anh. Các thầy bảo Khoa Anh ba tháng nữa mới tập trung, chỉ có thể học Tiếng Nga được thôi. Nghĩ đến quãng đường bom đạn dài giằng giặc mà sợ, mà ngại ngùng nên tặc lưỡi thì Tiếng Nga vậy. Thế là trở thành sinh viên lớp 3N67 học ở Cấp Điền trong số bốn lớp của khóa ấy. Mình được bố trí ở nhà bác Hốt cùng với Hồng Liên quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, người trở thành cô bạn thân thiết suốt từ năm 1967 cho đến tận bây giờ và một cô bạn nữa ở Bình Lục, Nam Hà chính là Dẩn.
Dân thời chiến thật tốt cho những người ở tận đẩu tận đâu đến ở vô tư, không một chút đòi hỏi. Bây giờ phần lớn mọi thứ đều phải quy ra thóc. Bác chủ nhà mình ở có hoàn cảnh khá éo le. Ông chồng sống với vợ lẽ ở ngoài bãi, một mình sống với con trai nhỏ tên Điếm chừng mười hai mười ba tuổi. Mình cứ buồn cười vì hôm đầu tiên Điếm cứ gọi chúng mình là các cô bé sinh viên. Thỉnh thoảng cậu bé còn cho các chị ổi nữa. Ở nhà bác chúng mình chỉ giúp bác quét nhà quét cửa, đun nước uống hàng ngày, gánh nước khi nước trong bể vơi và đi chặt đay khi đến mùa thu hoạch.
Ba chị em ở với nhau khá hòa thuận, nhưng mình thân với Hồng Liên hơn bởi tính cách thẳng thắn chân tình của bạn. Dẩn thì quả thực cũng rất tội vì ngay từ thời ấy cũng không được khỏe lắm. Có lẽ vì một phần do sức khỏe, một phần vì nhà cũng có kinh tế khá nên Dẩn thường báo  một suất cơm nữa để ăn thêm. Thường chúng mình hay đi lấy cơm từ nhà ăn về để ăn ở nhà. Lấy bốn suất cơm về thì sẻ một suất cơm vào chiếc ca cho Dẩn. Chẳng hiểu Dẩn không bằng lòng điều gì đó, không may đến tai Hồng Liên, thế là mỗi khi lấy cơm về Liên xúc cơm vào ca lèn hết sức tới khi không lèn được mới thôi, tới khi Dẩn phải phát khóc lên.
Bây giờ nghĩ lại thấy buồn cười quá và cũng chỉ muốn phát khóc lên. Thương Dẩn và thương cho tất cả chúng mình nữa. Chao ơi là đói! Đói triền miên, đói khủng khiếp! Đói! Đói! Đói! Nhưng cấm được kêu đói. Kêu là bị đem ra kiểm điểm. Bao thanh niên cùng tuổi còn phải xông pha nơi trận mạc, chiến đấu với quân thù, hy sinh đổ xương máu mà ở đây chúng mình  được nhà nước cho đi ăn học như thế này là ưu ái lắm rồi, còn kêu ca nỗi gì. Nhưng đói vẫn là đói, thanh niên đang tuổi ăn mà chỉ có ít cơm độn khoai khô với tí canh rau đen kịt mầu chảo gang và hoặc là tí cá, hoặc là tí đậu, hoặc sang lắm có tí thịt mỡ bèo nhèo. Có đợt ăn bánh bao triền miên. Không hẳn là bánh bao mà là bột mỳ nắm lại luộc lên có mầu xam xám, ném chó chó chết liền.
 Nhớ có lần Trần Quang Ích, sau là thư ký của ông giám đốc Thủy điện Sông Đà, đói quá đi qua sân nhà dân, nhặt một bắp ngô của dân, bị phản ánh thế là bị kiểm điểm, khổ ơi là khổ. Thú thực là có khi đói quá, không học được chúng mình thi thoảng cũng ăn vụng một vài miếng khoai lang khô của bác chủ để ở góc nhà. Xin bác tha tội cho chúng con, bé dại xa nhà và đói quá. Nhưng  có đôi lần cũng được ăn tươi. Lần thứ nhất đó là đi lao động ở Lôi Châu phải đi qua cánh đồng, Na là dân miền trũng ở Lý Nhân, Nam Hà phát hiện ra có rất nhiều ốc nhồi ở chân các đám bèo, thế là cả bọn thi nhau bắt được một rổ to tướng. Chẳng có mỡ miếc gì hết, xin bác chủ tí muối và mấy quả khế chua đun lên ăn, mà sao thấy ngon quá trời. Mình dám chắc không có đặc sản nào thời nay ngon bằng. Lần thứ hai là một lần đi chợ Đò, Kênh Vàng, Hồng Liên chắc mới nhận được tiền bố hay anh Tộ cho, dám mua hẳn một con gà về giết thịt mời cả bác chủ cùng ăn. Một bữa ăn ngon khó có thể quên. Đúng là miếng ngon nhớ lâu là thế.
Nhớ một hôm chẳng hiểu vì sao Dẩn bị đau bụng khủng khiếp. Liên cõng nó đi vòng quanh nhà dỗ dành đủ kiểu mà nó chẳng đỡ gì cả, chỉ khóc kêu trời. Đêm tối rồi, chẳng biết làm gì, mình sợ quá sang nhà anh My lớp trưởng nói anh xem có cách gì giúp Dẩn với. Anh sang và quyết định phải đưa Dẩn đi bệnh viện ở Thứa cách Cấp Điền bẩy cây số. Lấy chăn làm võng, anh My và Đẩu khiêng cáng, còn mình và Hồng Liên cầm đèn lẽo đẽo chạy theo sau. Tới bệnh viện người ta khám và bảo giun chui cuống mật. Họ cho thuốc uống, mấy tiếng sau thì đỡ. Đến sáng cả bọn lại lếch thếch kéo nhau về. Một phen hú hồn hú vía. May mà không sao cả.
Năm ấy Dẩn bị học lại. Chúng mình ít có điều kiện gặp nhau. Sau này ra trường, mình cũng chẳng biết Dẩn đi làm ở đâu. Cách đây bốn, năm năm gặp Dẩn trong đám cưới con Hồng Hải mới biết Dẩn làm việc trong quân đội, nhưng hiện tại nghỉ việc, vẫn hưởng nguyên lương vì phát hiện bị ung thư đã được hai năm rồi. Mình và Hồng Liên có đến thăm Dẩn một lần. Dẩn mua được căn hộ chung cư ở Văn Quán. Cũng mừng cho Dẩn, nhất là bệnh vẫn vậy không tiến triển gì thêm. Trông Dẩn thậm chí còn hồng hào xinh đẹp hơn thời sinh viên.
 Một hôm, Hồng Liên gọi điện báo Dẩn dạo này yếu lắm rồi,  mình và Hồng Liên rủ nhau đến thăm. Trông bạn nằm trên giường với ống truyền dịch thật đáng thương. Gầy gò da sạm hẳn. Nhìn thấy chúng mình, nước mắt Dẩn chảy dài làm mình lại nhớ đến hình ảnh cuối cùng của Ninh khi bạn ấy cũng bị ung thư nằm ở bệnh viện K. Cầm tay chúng mình bạn ấy cũng nước mắt chảy dài. Con trai mà phải khóc là điều hiếm thấy. Ninh muốn nói mà không nói được nên chỉ biết khóc trông rất thương tâm. Dẩn ít ra vẫn còn nói được. Vậy là đã năm năm bạn phải sống chung với căn bệnh quái ác ấy rồi. Thế là kiên cường lắm đấy. Nắm bàn tay xương xẩu gầy guộc của bạn, đưa cho bạn chiếc phong bì, bạn ấy bảo không cần phải thế vì lương của bạn ấy mỗi tháng hơn năm triệu kia. Thôi thì chỉ một chút tấm lòng của chúng mình. Giá như có thể gánh đỡ nỗi đau cho Dẩn thì chúng mình cũng sẵn lòng chìa vai ra gánh đỡ. Biết làm sao, mỗi người một số phận. Dẫu gì thì con cái Dẩn cũng đều trưởng thành, xây dựng gia đình cả rồi. Phải chi bạn được khỏe mạnh, nghỉ hưu vui vầy cùng con cháu và hàng năm đi hội khóa Nga văn 67 cùng chúng mình thì sung sướng biết bao!
Thôi, trời cho cái gì thì hưởng cái đó. Một khi Chúa Trời gọi ta  về với Chúa, thì ta cũng thanh thản mà đi, nhẹ lòng mà đi. Biết đâu ở nơi ấy, cuộc sống của ta lại chẳng tốt đẹp hơn, an lành hơn và hạnh phúc hơn cõi đời hiện tại này chăng? Khi viết những dòng này về Dẩn, thì bạn đã ở thế giới bên kia rồi. Nơi vĩnh hằng ấy, chúng mình chỉ còn biết cầu chúc bạn hãy yên nghỉ ngàn thu. Chúng mình vẫn luôn nhớ về bạn đấy, Dẩn ạ!