Bài đăng phổ biến

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

ALEKSANDR BLOK, NHÀ THƠ NGA LỖI LẠC CỦA “THẾ KỶ BẠC” - Nguyễn Xuân Hòa

Thày Nguyễn Xuân Hòa gửi cho N67 một bài viết về nhà thơ Nga Aleksandr Blok, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc:

ALEKSANDR BLOK, NHÀ THƠ NGA LỖI LẠC CỦA “THẾ KỶ BẠC”
                                                                                          Nguyễn Xuân Hòa
Aleksandr Blok (1880-1921)
Đầu thế kỷ 20 trên bầu trời thi ca Nga của “thế kỷ Bạc” bừng sáng lên với những ngôi sao lớn nối tiếp nhau xuất hiện: Đó là Aleksandr Blok, Anna Akhmatova, Sergei Esenin, trong đó A. Blok - nhà thơ của buổi giao thời lịch sử - có ảnh hưởng vô cùng lớn lao đối với toàn bộ nền thơ ca hiện đại Nga.
Cùng với Andrei Belưi, Viacheslav Ivanov..., Blok thuộc thế hệ thứ hai (phái trẻ) các nhà thơ tượng trưng Nga chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nhà thơ và triết gia Vladimir Soloviov (1848 - 1901), người có uy tín rất lớn trong phái trẻ tượng trưng Nga đầu thế kỷ XX,  trong đó Blok nổi lên như nhà thơ lớn nhất chiếm vị trí chủ soái từng được ví như Đante của nước Nga.
Aleksandr Blok (1880 - 1921) là nhà thơ vĩ đại cuối cùng của nước Nga cũ trước Cách mạng. Sáng tác của Blok là một trong những hiện tượng xuất sắc nhất của nền thơ ca Nga sau Puskin, Nekrasov, Tiutchev. Mảng thơ trữ tình của Blok, trong đó có thơ tượng trưng, chiếm một vị trí nổi bật nhất trong đời sống thơ ca nước Nga cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Xuất thân từ giới thượng lưu đại trí thức, Blok (1880-1921) sinh ra và lớn lên ở đất đế đô Saint-Petersburg, trung tâm văn hoá và văn minh của nước Nga cuối thế kỷ 19.
Từ những ngày còn thơ bé Blok đã thích làm thơ và ở tuổi hoa niên chàng trai Aleksandr đã say mê làm thơ, nhưng mãi đến năm 1901, A.Blok mới cảm nhận được mình sẽ là nhà thơ.
Từ những bước đi đầu tiên khá vững chắc trên văn đàn của chủ nghĩa tượng trưng Nga đang ở thời kỳ cực thịnh Blok xuất hiện và được nồng nhiệt tán thưởng từ phía các nhà văn, nhà thơ có xu hướng bất chấp sự thật tàn nhẫn của cuộc sống để dựng nên “những huyền thoại ngọt ngào” về thực tại. 
Tiếp thu một cách tự nhiên và hào hứng quan điểm duy tâm thần bí của Soloviov, Blok cùng Andrei Belưi, Viacheslav Ivanov trong phái trẻ tương trưng nước Nga đã cải biên, phát triển chủ nghĩa tượng trưng của ông đối với thơ Nga đầu thế kỷ 20. Hình tượng trung tâm trong triết học và trong thơ Soloviov là “Tâm hồn thế giới”, là “Nữ tính Vĩnh hằng” đã đánh trúng vào tâm tư của nhà thơ trẻ Blok và phái trẻ tượng trưng Nga. Soloviov đã biểu thị tính nhân bản rất đời thường trong bài thơ nổi tiếng Das Ewige Weibliche (Nữ tính vĩnh hằng) (1898) khi ông bày tỏ “niềm ngưỡng kính nồng cháy đối với cái đẹp thánh thiện vĩnh hằng song cũng bao dung đôn hậu với cái đẹp phàm trần”(Phạm Vĩnh Cư, 2005). Thừa hưởng những biểu tượng tình yêu trong thơ Soloviov, Blok đã phát triển và sáng tạo nhiều hình tượng rất đặc trưng về tình yêu và người đọc thường xuyên bắt gặp những hình tượng triết lý của Soloviov trong thơ Blok như Thiếu nữ Vĩnh hằng, Bà chúa Vũ trụ, Người Đàn bà Huyền bí ... Ngay từ cuối thế kỷ 19 (1898) Soloviov đã tạo nên biểu tượng về cái đẹp thuần khiết của Nữ tính Vĩnh hằng bằng những vần thơ: Nhưng hãy biết: Nữ tính Vĩnh hằng/ Trong thân thể bất tử giờ đây đang giáng thế/ Trong ánh sáng bất tuyệt của nữ thần mới/ Trời với biển hân hoan hòa làm một  (Phạm Vĩnh Cư dịch)
Blok cũng vậy. Coi vị hôn thê nguyên mẫu của mình - nàng Liubov Dmitrievna - không chỉ là một thiếu nữ trần thế mà còn là Người Đàn bà Kiều diễm, nên trong thơ Blok không giữ lại những gì hiện hữu của nguyên mẫu mà muốn đẩy cho những vần thơ bay bổng chạm tới cái đẹp thuần khiết. Bởi chính Liubov Dmitrievna là “hiện thân trần thế của một Tuyệt thế Giai nhân hay là của Nữ tính Vĩnh hằng” nên Nàng bắt đầu có những nét siêu nhân. Thông qua hình tượng Tuyệt thế Giai nhân Blok đã thi vị hóa người mình yêu rồi nâng lên mức van nài tôn kính của một chàng trai trần thế đối với Người Đàn bà Siêu nhân: Dưới bóng cột nhà lồng lộng cao sang/ Tiếng kẹt cửa cũng khiến tôi run rẩy/ Và soi vào tôi hào quang chói lọi/ Mà bóng dáng nàng chỉ là giấc mơ êm./ Ôi tôi quen những mộng mị dịu hiền/ Của Người Vợ Tôn nghiêm và Vĩnh cửu ( Đăng Bảy dịch); hoặc:  Trên mái đầu em mang vương miện/ Tóc còn xanh em biết gì đâu/ Từng bậc ngai vàng đinh ninh tôi nhớ/ Khe khắt lời em phán xét lần đầu./ Những tà áo sao nhợt nhoà thế/ Và lặng yên đến lạ kỳ sao/ Một vòng tay ôm toàn hoa huệ nước/ Mà mắt em trống rỗng nhìn đi đâu.
Những dòng thơ lãng mạn này lại xuất phát từ một kỷ niệm thật của cuộc đời trần thế: Lúc bấy giờ chàng trai Blok mới mười bảy tuổi sắm vai Hoàng tử Hamlet, còn nàng Liubov Dmitrievna ở trang ấp bên cạnh sắm vai nàng Ofelia mất trí. Blok đã hồi tưởng lại, thực tế như một hình bóng lung linh trên mặt nước, bục sân khấu biến thành ngai vàng và vòng hoa đồng nội biến thành vương miện. Rõ ràng lúc này “hình tượng thực tế của thiếu nữ yêu dấu trong trí óc mường tượng của nhà thơ đã hòa làm một với ý niệm mượn của Vladimir Soloviov về một căn nguyên nào đấy được thể hiện trong những khái niệm Tâm hồn thế giới hay Nữ tính Vĩnh hằng”(Orlov).
Mặc dù có thiện cảm với các nhà thơ tượng trưng thế hệ thứ nhất, cảm phục tài năng của họ, thấy được ở họ các bậc thầy của ngôn từ thơ ca, song Blok xa lạ với cái bi quan cực đoan của chủ nghĩa tượng trưng. Từ cách nhìn đời ảm đạm trong những sáng tác đầu tay dần dần ở Blok đã xuất hiện ước mơ về một cuộc sống khác, nảy sinh một hy vọng lờ mờ về mối dây liên hệ với thế giới cho dù phải thông qua một hình tượng Tuyệt thế giai nhân siêu phàm.                       
Trong sáng tác thơ trữ tình mặc dù thiên về lối miêu tả thần bí, song Blok không quay lưng với thực tại. Ước mơ lãng mạn trong thơ Blok là tạo nên những biểu tượng gắn với sợi dây của thực tại đời thường. Quả thật Blok “đã tạo nên một thế giới thi ca độc đáo làm sống dậy những hoài vọng mang tính biểu tượng. Nhân vật trữ tình của nhà thơ không phải sống trong hiện thực nước Nga, mà trong một thế giới ước lệ” (Trần Thị Phương Phương, 2010). Cái tượng trưng trong thơ Blok được hiểu như sự hàm chỉ một bản chất bí ẩn nào đó, “một thế giới khác” với thế giới khách quan mà chúng ta đang sống, thế giới của những “cảnh đời trần thế khổ ải”. Các nhà thơ tượng trưng và Blok tự coi mình là những nhà lãng mạn chủ nghĩa. Nhưng tách rời khỏi thực tại họ chỉ là những nhà lãng mạn của cái không giống với thực tại, bởi vậy họ cảm thấy bất lực khi đứng trước tình huống buộc phải đả động đến thực tại trong sáng tác thi ca. Mà như thế có nghĩa là cái tượng trưng của họ dù muốn hay không muốn đã thực sự phản ánh những hiện tượng thực tế.
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên khá thú vị giữa Soloviov và Blok trong tình yêu đam mê. Chàng trai Soloviov năm 23 tuổi đã đem lòng yêu say đắm một mệnh phụ hơn ông nhiều tuổi đã có chồng con nhưng ông lại coi nàng là hiện thân của Nữ tính Vĩnh hằng trên thế giới này. Blok cũng có mối tình điên dại tương tự. Năm 17 tuổi chàng trai Blok ngây thơ trong trắng đã yêu mê mệt một mệnh phụ và trong thơ Blok đã nhớ lại chất vàng nguyên của mối tình đam mê dai dẳng. Chàng trai mười bảy tuổi lúc bấy giờ vẫn không thể nào quên được mối tình đầu sau mười hai năm: Hay thiên dáng của lần đầu say đắm/ Vẫn chưa hề li biệt với hồn anh/ Và anh mãi đến muôn đời đính ước/ Với bóng hình xưa không quên lãng trong anh.
Đó là mối tình đầu sét đánh của Blok với một phu nhân 30 tuổi đầy quyến rũ Ksenia Sadovskaia, mẹ của ba đứa con, diễn ra năm 1897 tại nơi nghỉ mát Bad Nauheim, nước Đức. Mối tình này hằn sâu trong tâm hồn thi sĩ và ám ảnh mãi khiến Blok không thể không viết ra một loạt những bài thơ sau 12 năm đã trôi qua. Đó là những bài thơ viết ngay sau đó và chùm thơ Mười hai năm sau (1909-1910) viết về mối tình với Ksenia, người phụ nữ đẹp mê hồn có đôi mắt xanh biếc làm say lòng nhà thơ đa tình: Anh lại thấy đôi tay em thon thả/ Và nghe thấy giọng của em thánh thót/ Không phải trong mơ mà trong đời thực/ Anh lại đắm chìm trong thăm thẳm mắt xanh.
Từ nguyên mẫu vị hôn thê Liubov Dmitrievna Blok đã sáng tạo nên một biểu tượng Người Đàn bà Kiều diễm được nhà thơ dùng để đặt tên cho tập thơ trữ tình nổi tiếng của mình. Blok viết xong tập thơ này từ những năm 1901-1902 nhưng đến năm 1903, trước Cách mạng Nga lần thứ nhất 1905, Blok mới cho ra đời tập thơ đầu tay Thơ về người Đàn bà Kiều diễm và nhanh chóng trở thành nhà thơ xuất sắc nhất của trường phái tượng trưng Nga. Đây là tập thơ thể hiện sự hài hòa của Người Đàn bà Kiều diễm, thuần khiết với Nữ tính Vĩnh hằng.                          
Tập thơ Thơ về Người Đàn bà Kiều diễm tập hợp gần 800 bài thơ trữ tình đã được công bố trên tạp chí Con đường mới của phái tượng trưng và trên giai phẩm Những bông hoa phương Bắc. Lúc này toàn bộ con người Blok bị chế ngự bởi những cảm xúc thần bí của thơ ca Soloviov và của phái trẻ tượng trưng. Song Blok không đi vào thế giới mộng ảo mà luôn gắn với thực tại, bởi vậy thơ trữ tình thời trẻ của Blok tuy có những bài còn đậm chất lãng mạn thần bí, nhưng khi viết về cuộc đời thực tại thì tình cảm tự nhiên của con người trong thơ Blok vẫn dậy lên, dồn dập, khoẻ khoắn.
Mối tình của Blok với nàng Liubov Dmitrievna đã làm tuôn trào những vần thơ lãng mạn được tái tạo gắn với những kỷ niệm của đời thường: đó là ngày 7 và ngày 9 tháng 11 năm 1902, buổi tối của lần tỏ tình sau hội khiêu vũ tại buổi họp mặt của giới quý tộc do nữ sinh cao đẳng tổ chức; buổi dạo chơi bên nhau trong khu rừng huyền ảo gần trang ấp Boblovo, nơi trai thanh gái lịch đến thăm gia đình Liubov Dmitrievna, con gái nhà bác học Mendeleev, và thường dạo chơi trong khuôn viên trang ấp: Nàng mười lăm. Nhưng nhịp đập trái tim nàng/ Đã là của vị hôn thê tôi đó/ Lời cầu hôn khi tôi vừa kịp ngỏ/ Nàng quầy quả bỏ đi, đôi má ửng hồng/ Chuyện lâu rồi và kể từ ngày ấy/ Chẳng ai hay bao ngày tháng đã trôi/ Chúng tôi thưa gặp nhau và chẳng nói nhiều lời/ Nhưng im lặng thật là sâu lắn/ Rồi một đêm đông tin vào giấc mộng/ Rời căn phòng sáng rực chật người chen/ Những mặt nạ hoá trang cười và hát/ Tôi đắm say đưa mắt tiễn theo nàng...
Blok lúc nào cũng tâm niệm “Thi nhân là một hằng số” và thơ Blok đã nói lên điều đó: Thi nhân lãng mạn nhưng thi nhân trước sau cũng là con người của thực tại. Chính vì vậy những dòng thơ trữ tình của Blok dù bay bổng vẫn mang những nét của trần thế: Tôi nghe tiếng chuông. Mùa xuân trên cánh đồng/ Những cửa sổ tươi vui em rộng mở / Ngày cười vang và lát sau vụt tắt / Chỉ mình em lặng ngắm dải mây hồng.
Những sắc màu lộng lẫy trong sáng, hứng khởi trong nhiều bài thơ trữ tình của Blok rất gần gũi với hội hoạ Nga cổ đại lúc bấy giờ, nền hội hoạ bắt đầu được hé mở trước các nhà nghiên cứu nghệ thuật dân tộc qua các lớp bồ hóng và bụi thời gian che phủ, qua các thành lớp trên tượng thánh và tranh tường. Đây chính là sợi dây nối với cuộc đời thực tại mặc dù nhà thơ vẫn mộng mơ: Tôi yêu những buổi chầu tối/ Bên nhà thờ trắng ven sông/ Làng quê trước khi chiều xuống/ Xanh lam mờ bóng hoàng hôn/ Tấm màn sương đang buông xuống/ Tân lang rời khỏi bệ thờ/ Ửng hồng bình minh hôn lễ/ Trên rừng cây hình răng cưa (Đặng Dương Đượm dịch).
Đôi khi mượn triết lý thần bí của Soloviov, Blok rũ sạch giấc mơ nặng nề về nhận thức cuộc đời để đi vào cõi mộng mơ. Năm 1901, tháng Sáu, Blok đã lấy hai câu thơ của Vladimir Soloviov (1892) “Cả giấc mơ nặng nề về nhận thức cuộc đời/ Em rũ sạch yêu thương và buồn nhớ” làm lời đề từ để viết bài thơ mộng mơ “Tháng năm trôi tôi vẫn hình dung thấy...”(1901). 
Thực tại xã hội sôi động không đơn giản chỉ là cái đối trọng với cái triết lý duy tâm thần bí trong thơ Blok, mà như mưa lâu thấm dần, nó tác động đến tâm tư tình cảm của nhà thơ trẻ giàu tính nhân bản. Là “một nhà thơ chân chính -vốn ở ý trời- và con người của lòng chân thành không biết sợ” (M. Gorki), Blok hoàn toàn không cấm cung trong “tháp ngà” để sáng tác, bởi vậy cuối cùng Blok xa lánh dần những nhà thơ trong phái trẻ tượng trưng suy đồi và hướng tư tưởng sáng tác của mình vào cuộc sống thực tại. Một giai đoạn mới trên bước đường sáng tác của Blok mở ra, thực tại cuộc sống nước Nga giang tay tiếp đón nhà thơ đích thực của mình.   
Có thể nói, thơ trữ tình của Blok nói chung và tập thơ “Thơ về Người Đàn bà Kiều diễm” nói riêng là những vần thơ giàu cảm xúc, có sức gợi suy nghĩ bền lâu. Đó là mạch ngầm chảy mãi trong suối thơ Blok, phản ánh chân thật thế giới nội tâm phức tạp của con người, và vì thế ngày nay khi nước Nga đang vững bước vào thế kỷ 21 đầy sôi động của một nước công nghiệp phát triển, thơ Blok vẫn mãi mãi là người bạn tâm tình của người dân Nga hôm nay và của triệu triệu bạn đọc ngoài biên giới nước Nga. Ở Việt Nam thơ Blok được đón nhận một cách trân trọng và nghiền ngẫm bởi chất trí tuệ lắng đọng của thơ và những biểu tượng hàm ẩn trong thơ, thế hệ trẻ Việt Nam nhiều người tìm đọc một cách thích thú vì thấy được trong thơ Blok một tâm hồn đồng điệu về tình yêu thuần khiết toát ra từ hình tượng Nữ tính Vĩnh hằng.
Một số bài thơ của A. Blok do Thày Hòa dịch:

THƠ A. BLOK (Liên bang Nga)
                                 Người dịch: Nguyễn Xuân Hòa

Trên đồng cỏ trăng rằm lơ lửng                                       
Chiếc đĩa tròn huyền diệu đứng im,
                      Trăng sáng, lặng thinh.

 Hoa dại nở nhạt nhoà đồng cỏ
 Bóng đêm đen trườn khắp đồng hoa
                      Ngả lưng thiếp ngủ.

 Thấy rờn rợn khi bước ra đường:
 Nỗi lo âu không ai hiểu nổi
                      Trùm lấp dưới trăng.

 Dẫu ta biết: ngày ngày sáng sớm
 Mặt trời ló ra trong mù sương,
                      Trải nắng khắp đồng,

 Thì lúc ấy ta đi trên con đường mòn,
 Nơi dưới từng ngọn cỏ cọng rơm
                        Sục sôi cuộc sống.                  
21 tháng Sáu 1898


Đồi cây xanh quanh năm toả mát,                        
Bên suối khe trong cánh rừng hoang.
Sinh bệnh lười khi nghe suối hát                         
Xung quanh đồi ngào ngạt đưa hương.
                        
Hoa, cỏ cây phủ đồi xanh mướt                                                  
Chẳng bao giờ để nắng lọt qua,                        
Đồi cây xanh cho ta bóng mát                        
Nghe đều đều róc rách suối xa.
                        
Đôi tình nhân nép mình thủ thỉ                         
Quên chẳng nhìn cây cỏ xanh mơ.                         
Thì thầm sao hoa không héo nhỉ?                        
Sao suối không cạn nước bao giờ?
                        
Dưới sâu lòng đất cây đâm rễ                        
Là nơi chôn mãi nỗi đau tôi,                       
Ngày cứ trôi mà chưa thôi rơi lệ                         
Ofelia, ôi những đóa hoa tươi !                                                            
3 tháng Mười một 1898   




Người yêu dấu! Nơi tâm hồn thiếu nữ                                
Em đẹp trắng trong!                        
Hãy yên ngủ! Tâm hồn anh bên em                                 
Kiều diễm dung nhan!                        
Em tỉnh giấc, khuya về cơn bão tuyết                                
Giá rét căm căm.                        
Bởi bên em một tâm hồn tin cậy                                
Em không cô đơn.                         
Mặc bên ngoài gió mùa đông gào thét, –                                
Anh luôn bên em!                        
Che chắn cho em cơn bão mùa băng tuyết                                
Bằng cả tâm hồn!                     
8 tháng Hai 1899       

          TÔI TỚ HẦU HẠ NỮ HOÀNG

Đừng hô hào
Thánh đường ─ không hô hào con vẫn đến
Con ngả đầu lặng im
Quỳ dưới chân Người.

Lời răn dạy con sẽ lắng nghe
Rụt rè con chờ đợi
Để tới buổi viếng thăm chốc lát
Lại được cầu xin ban phước chở che.

Sức mạnh đam mê của Người cuốn hút
Con yếu đuối dưới ách Người                     
Lúc làm đầy tớ, lúc là người yêu,
Nhưng suốt đời là nô lệ.        
14 tháng Mười 1899

NHẬP ĐỀ
(Rút trong “Thơ về Người Đàn bà Kiều diễm”)

Nghỉ ngơi uổng công. Khắc nghiệt đường xa.
Một chiều đẹp trời. Tôi lay cổng vu vơ.

Tiếng lay cổng với nàng nghe xa lạ,
Đầy ngọc trai nàng tung rắc xung quanh.

Cao ngất nhà tháp gỗ, đã tắt buổi hoàng hôn.
Lối cổng vào ẩn tàng điều huyền bí.

Ai đốt lửa buổi bình minh nhà tháp gỗ?
Đích thân Công chúa gây dựng điều chi?

Từng nóc nhà chạm khắc hoa văn
Về phía nàng ánh lửa hồng hắt bóng.

Mái vòm cao vươn lên tít trời xanh.
Những ô cửa xanh ánh lên màu hồng đỏ.

Chuông trên tháp đều ngân lên gióng giả.
Trang phục đều mang dáng dấp mùa xuân.

Buổi hoàng hôn Nàng có đợi tôi chăng?
Nàng đốt nhà tháp gỗ? Hay mở cổng tôi vào?
28 tháng Chạp 1903


Cả giấc mơ nặng nề của nhận thức cuộc đời
Em rũ sạch yêu thương và buồn nhớ.

                                             V.l. Soloviov

Tháng năm trôi tôi vẫn hình dung thấy
Dung nhan Em không chút khác ngày xưa.

Lửa rực cháy chân trời lòa vầng sáng,
Lặng lẽ tôi chờ, − buồn nhớ với yêu mơ.

Lửa rực cháy chân trời và bóng Em gần lại
Nhưng tôi hãi hùng: dung nhan.em khác xưa.

Những dáng nét thân quen đâu còn nữa
Khiến trong tôi cháy bỏng nỗi nghi ngờ.

Ôi, tôi gục xuống − khổ đau và bé nhỏ
Nào có ai cưỡng được hồn mơ!

Lửa rực cháy chân trời! Ánh hào quang gần lại,
Nhưng tôi hãi hùng: dung nhan Em khác xưa.
4 tháng Sáu 1901



...cầu chúc thì đã muộn,
Tất cả đã qua rồi: hạnh phúc lẫn khổ đau.

Vl. Soloviov
Đừng giận dỗi, hãy rộng lòng tha thứ.
Em đẹp tươi trong đơn chiếc lẻ loi,
Sao tôi thể trả về quá khứ
Những giấc mộng ng và cả niềm tin...
Con đường tôi vô vọng bến bờ.

Em ngời tươi với ý nghĩ mộng mơ
ng xốn xang tràn trề hạnh phúc,
Em tha thiết như u xanh ngọc bích
n với tôi cuộc sống khác xa,
Con đường tôi đi ng khác xa.
Tôi o m nghĩ đến mộng mơ.

Những tôn thờ thời tôi n trai trẻ
Em y tin, không bất hạnh gì hơn
Nơi thần huyền của Em từng yêu t thở
đất nước rộng lớn bao la,
Nhưng với tôi thần lạnh nhạt thờ ơ.
10 tháng u 1901      


S.- Petersburg . Mùa đông và mùa xuân 1902
*  *  *
Cả Thần Linh và cả vị Hôn Thê đều nói:Hãy đến.
                                                          Sách Khải Huyền
Tôi tin Thái Dương bất tận,
Xa xa nhìn thấy rạng đông.
Ánh sáng thế gian tôi đợi
Rọi từ mảnh đất mùa xuân.

Tất thảy ngập tràn giả dối
Giật mình, run rẩy toàn thân
Trước mặt tôi một bờ mương
Dẫn tới vùng hoang lầy lội.

Tôi đi qua những cánh rừng
Thiêng liêng những bông huệ trắng.
Trên tôi rợp cả bầu trời
Thiên thần lượn bay muôn cánh.

Đã rập rờn muôn tia sáng
Của nguồn ánh sáng ảo huyền.
Tôi tin Thái Dương bất tận
Và nhìn thấy mắt Em đen.
22 tháng Hai 1902




Mỗi lúc chiều buông anh gặp em,
Em chèo khua nước thuyền trôi êm.
Yêu em yêu cả tà áo trắng,
Giã biệt từ nay giấc mộng huyền.

Gặp nhau lạ quá chỉ ngây nhìn
Mờ xa doi cát khuất trong đêm
Chập chờn ánh nến đêm thanh vắng
Ai nghĩ về em, nhan sắc em.

Cảnh vắng hoàng hôn êm đềm quá
Lửa tình trào đến − dẹp sang bên...
Ta gặp nhau trong chiều sương giá
Bên bờ lau sậy sóng lăn tăn.

Tình yêu, hờn dỗi, buồn man mác
Tất cả trốn đi rồi mờ tan...
Tiếng nguyện vờn bay tà áo trắng
Mái chèo khua ánh nước loang loang.
                                  13 tháng Năm 1902


NỖI LO ÂU

Trái tim hỡi, ngươi nghe thấy chăng
Đằng sau ngươi
Gót sen ai bước nhẹ nhàng?

Trái tim hỡi, ngươi nhìn thấy chăng:
Có ai đó giơ tay ra hiệu
Mà thầm kín có phải không?

Là em ư? Là em ư?
Ào ào cơn bão tuyết
Trăng lưỡi liềm phủ băng...

Phải chăng em đang từ trên cao lao xuống?
Phải chăng em đang cuốn cơn bão đi, -
Là em, người tôi đã nặng lòng say đắm?

Nào hai đứa mình, ta vút bay lên!
Trên khoảng không bao la trắng tuyết
Nào ta thiêu đốt hết!
Bên kia đại dương che phủ sương mờ.
Con chim bão tuyết
Có đôi cánh sẫm màu,
Hãy cho ta đôi cánh, chim ơi!

Cùng em dịu hiền với trái tim tôi
Trong vầng trăng màu ánh bạc
Cả tâm hồn tôi mòn mỏi kiệt hơi!

Để ngọn lửa trong mùa đông nắng rát
Đốt cháy thiêu cây thánh giá xa kia!

Để ta bay như mũi tên lao vun vút
Đến vực sâu thăm thẳm những sao đen!
4 tháng Giêng 1907





 Giữa những ngôi nhà những ngày vàng nắng
Tôi và em trong phút chốc gặp nhau.
Em chăm chắm nhìn tôi như thiêu đốt
Rồi khuất dần hun hút cuối ngõ sâu.

Đôi mắt em nhìn tôi không vô cớ
Lặng thinh nhìn mà bỏng rát như thiêu,
Không vô cớ tôi lén thầm cam chịu
Trước mặt em, ôi lừa dối lặng im!

Rất có thể, những đêm đông rét buốt
Ném tôi cùng em vào vũ hội cuồng điên
Và cuối cùng tôi sẽ là người bị giết
Bởi cái nhìn nơi em – sắc như lưỡi dao găm!
6 tháng Mười 1909


Rút trong tập MƯỜI HAI NĂM SAU
                                                          Gửi К.М.S.*
                                          
Mắt em biếc xanh, Trời phú cho em sao đẹp thế
Thần mối tình đầu linh nghiệm trên đầu anh,

Rũ sạch trong cơn mưa thần lặng im đứng dậy
Cất tiếng ca như ong vò vẽ giọng trầm.

Thần xóa sạch thời quá khứ xa xăm
Nhưng thần không có tên gọi nào thanh thoát,

Anh lại thấy đôi tay em thon thả
Và nghe thấy giọng của em thánh thót,

Không phải trong mơ mà trong đời thực
Anh lại đắm chìm trong thăm thẳm mắt xanh.
1897 – 1909. Bad Nauheim
_______________________________          
* К.М.S.:Ksenia Mikhailovna Sadovskaia

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét