III/2002
MỪNG TẾT HỌC TRÒ
Tết Giáp Thân này rét dài, rét đậm,
Các em đến thăm, thày cảm động vô cùng.
Thày thì vụng về, các em thì đông,
Chỉ có ấm trà và khay bánh mứt.
Ta nâng chén trà thay cho lời
chúc,
Nhớ thơ xưa “bình minh nhất trản trà”,
Thày chúc các em “lương y bất đáo gia”.
Ta hiểu nhau trong hương trà ngào
ngạt.
Bây giờ thày mời các em ăn mứt,
Hãy cứ tự nhiên như ở nhà thôi.
Món mứt đầu tiên thày muốn đem mời,
Thơm thảo tình quê gọi là “long nhãn”.
Thày chúc các em mắt càng thêm
sáng,
Như mắt rồng để có “trí nhân” cao.
Lời Nguyễn Trãi hô “thay cường bạo” thuở nào,
Chuyện đức độ chớ bao giờ quên
nhé.
Món thứ hai chẳng có gì mới mẻ -
Món “mứt sen” đằm
thắm vị quê hương.
Thày nhắc các em câu chuyện “gần bùn”
Chuyện trong sạch chắc em nào cũng nhớ.
Món
thứ ba mời giữa ngày lạnh giá –
Món “mứt gừng” nóng rát cả toàn thân.
Hãy đừng quên cả “muối mặn” phàm trần,
Chuyện chung thủy đâu phải là
chuyện nhỏ.
Món “hạt dẻ cười”
nhà nào cũng có
Là món thứ tư thày tiếp các em.
Dễ dàng thôi, một nụ cười duyên
Cho cuộc đời này sức xuân dào dạt.
Thày không
mời các em ăn kẹo ngọt.
Chuyện “mật mỡ” xưa cụ Trạng dạy rồi.
Thày kiệm lời
chỉ nói vậy mà thôi.
Ta lại nhấp
chén trà chúc thọ.
Thôi, các em về, kẻo mưa dầm, rét đổ.
Cho thày gửi lời thăm tới mẹ cha.
Lúc nào buồn vui hãy nhớ chén trà,
Nhớ mấy món sơ sài nhân dịp Tết.
LÊ ĐỨC MẪN
30-01-2004
MÓN QUÀ ĐẦU XUÂN
Xin tặng mọi người một câu chuyện nhỏ:
Một người sớm mai mỉm cười trước gương.
Trời bỗng thêm xanh, bạn bè thêm thương.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.
Sách xưa dạy rằng lo âu là khổ,
Quẳng gánh lo đi vui cuộc đời này.
Hãy cười trước gương vào lúc sớm mai,
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.
Có ai không qua cuộc đời dâu bể,
Yêu khổ đường yêu, tài khổ đường tài.
Hãy cười trước gương vào lúc sớm mai.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.
Ai chẳng qua cầu trở trời, trở gió,
Mải chuyện làm ăn, tóc đã thôi đen.
Buổi sáng soi gương và hãy cười lên.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.
Người xưa dạy: cười với đời trước đã,
Rồi cuộc đời cười lại với ta sau.
Buổi sáng soi gương hãy tập cười lâu.
Một nụ cười – mười thang thuốc bổ.
Món quà của tôi – một trang giấy nhỏ,
Gửi tặng mọi người nhân dịp đầu xuân.
Xin tâm sự rằng sáng nay trước gương
Tôi đã uống xong mười thang thuốc bổ.
LÊ ĐỨC MẪN
01-01- 2004
НОВОГОДНИЙ ПОДАРОК
Это мой подарок
всем – рассказ похвал достойный:
Человек однажды
утром перед зеркалом стал улыбаться лишь один.
Вдруг заметил он,
что небо синее и мир спокойный.
Понял он: улыбка
– самый лучший витамин.
Всем из книг уж
видно, что раздумья – настоящее несчастье.
Выплесните чашу
полную страданий. Это худшая из всех картин.
Улыбайтесь перед
зеркалом, сказав, что счастье
В том, что
поняли: улыбка – самый лучший витамин.
Кто же не
испытывал падения и взлеты жизни.
Этому любовь,
талант – страшнейшая из всех причин.
Улыбайтесь утром
перед зеркалом, об этой забывайте неприязни.
Помните: улыбка – самый лучший витамин.
Кто же не страдал
от прихоти природы.
Год от года и
терял он силы и грустил от появления седин.
Улыбайтесь утром
перед зеркалом и говорите, чтобы
Все узнали, что
улыбка – самый лучший витамин.
Нас отцы и братья
учат так: улыбнись жизни прежде.
Жизнь улыбнется
тебе, лишит тебя морщин.
Улыбайтесь утром
перед зеркалом, держитесь вы в надежде,
Что все будет
славно, ведь улыбка – самый лучший витамин.
Ну, подарок от
меня – так малая страница со стихами.
Вы, пожалуйста,
примите как мой самый искренний привет.
Говорю, что утром
перед зеркалом сегодня, между нами,
Принял я доз
десять витамина. Колебания, конечно, нет.
Стихи
и перевод на русский ЛЕ ДЫК МАНА
EM CÒN NHỚ HAY EM ĐÃ
QUÊN
(nhạc và lời Trịnh
Công Sơn, nhớ về Sài Gòn.
Tôi viết lời Nga để hát chơi)
Ты помни, не забывай
Наш Сайгон в
летние дни.
Те улицы не
забывай,
Где всю ночь
деревья спят,
По вечерам идут
дожди.
Ты помни, не забывай,
Наш сосед заходит
к нам,
Приглашая нас на
чай.
Ты его не забывай.
Ты от нас уж
далеко.
Знаешь ты, как
тяжело.
Мы тебя помним
всегда,
И разлука нам
горька.
Русские слова ЛЕ ДЫК МАНА
HÓA THÂN
(Quảng Nam Online)
Thứ sáu, 28 Tháng 11 2008 20:47
Hóa thân
Thày
kể em nghe câu chuyện mặt trời
Cái nắng theo mưa hóa thành cây cối
Nụ cây âm thầm nghe ong bướm gọi
Một buổi mai hồng tự biến thành hoa.
Thày
kể em nghe câu chuyện con suối xa
Cứ ôm ấp nước hóa thành sông biếc
Sông ôm bầu trời hóa thân thành biển
Nghe gió vỗ về biển hóa ra mây.
Thày
kể em nghe câu chuyện của thày
Ngọn đèn xuyên đêm hóa thành giáo án
Viên phấn trở mình hóa ra bài giảng
Quyển sách sang trang thành ngôi sao xanh.
Có
người ra đi hóa thành con tem
Các em hóa thân thành ra đất nước
Thày cũng hóa thân mỗi giờ mỗi phút
Thành một phần tâm thức của từng em.
LÊ ĐỨC MẪN
|
Ngân vang trong một âm điệu trữ tình, Hóa thân của Lê Đức
Mẫn là bài thơ về người thày giáo và nghề dạy học với tất cả tình cảm và sứ
mệnh cao đẹp. thày kể em nghe câu chuyện..., câu thơ mở đầu như một lời tâm sự,
đã chuẩn bị cho người đọc một cách cảm nhận bài thơ Hóa thân trong mối liên hệ
với thực tiễn dạy và học của con người. Đạt tới các sắc thái tình cảm và ý
nghĩa rất lớn của nhân cách và công việc của thày giáo được kể thật hàm súc,
bài thơ Hóa thân gợi lên trong cảm thụ của người đọc niềm xúc động chân thật và
sâu sắc.
Thầy kể em nghe câu chuyện mặt trời/ Cái nắng theo mưa hóa
thành cây cối/ Nụ cây âm thầm nghe ong bướm gọi/ Một buổi mai hồng tự biến
thành hoa. Những tín hiệu tu từ được Lê Đức Mẫn sử dụng khá thành thục,
giá trị hiệu dụng của sự nghiệp trồng người ấm sáng như ánh nắng mặt trời, tươi
xanh như cây cối và đẹp như hoa lá. Với thủ pháp nghệ thuật này, Lê Đức Mẫn
tiếp tục khắc họa phẩm chất đạo đức và năng lực sư phạm của người thày giáo:
thày kể em nghe câu chuyện con suối xa/ Cứ ôm ấp nước hóa thành sông biếc/ Sông
ôm bầu trời hóa thân thành biển/ Nghe gió vỗ về biển hóa ra mây. Một cách tự
nhiên, trong sự thụ cảm của người đọc sáng dần lên ý nghĩ về quá trình khôn
lớn, trưởng thành của bao nhiêu thế hệ học trò theo sự dạy dỗ, vun đắp tình cảm
yêu thương của thầy, cô giáo. Lê Đức Mẫn đã dùng các động từ chỉ sắc thái tình
cảm âu yếm của con người để xây dựng linh hồn của tứ thơ này - ôm, ôm ấp, vỗ về
- và điều thú vị hơn cả là ở đây, hình tượng người thày giáo ẩn trong sự
hình thành của các thực thể tự nhiên nên có tầm vóc rộng lớn.
Trong những câu chuyện đang được Lê Đức Mẫn kể bằng thơ ấy,
hình tượng người thày giáo tương ứng với khách thể thẩm mỹ và đã trở thành chủ
thể thẩm mỹ của khổ thơ giàu âm điệu tình cảm xúc động: thày kể em nghe câu
chuyện của thầy/ Ngọn đèn xuyên đêm hóa thành giáo án/ Viên phấn trở mình hóa
ra bài giảng/ Quyển sách sang trang thành ngôi sao xanh. Sự hóa thân của người
thày giáo bộc lộ thật rõ trong những câu thơ đi thẳng vào tâm hồn người đọc khá
chân phương. Ở đây, hình tượng người thày giáo sáng lên trong ánh đèn soi trang
giáo án, dưới ngôi sao xanh gom ánh sáng từ những trang sách dạy chữ, dạy làm
người. Đặc biệt, viên phấn trở mình là một hình ảnh đẹp về sự truyền thụ kiến
thức của người thày giáo đạt hiệu ứng nghệ thuật sâu xa là gợi lên tình cảm
thánh thiện, trong đó có lòng biết ơn “Chữ tốt gieo trong người/ Nở ra đời bát
ngát” (Hoài An).
...Các em hóa thân thành ra đất nước, sự chuyển tiếp bên trong
của tình cảm mà người thày giáo dành cho học trò đã trao cho Lê Đức Mẫn phong
cách sáng tác thiên về những ngữ nghĩa mang âm điệu trìu mến kết hợp với giọng
thành thực tin tưởng, quý trọng. Trong mối liên hệ với mục đích sư phạm của
người thày giáo, ý nghĩa rèn luyện của học sinh, Lê Đức Mẫn đã khái quát được
giá trị cao quý nhất của mối quan hệ dạy và học. Đất nước - sự hóa thân đẹp
nhất mà học trò có thể làm được sau bao nhiêu cố gắng tiếp thu và thực hành
những điều thày giáo dạy bảo. Được hình thành dưới tác động của đối tượng sáng
tác và tư liệu hiện thực là người thày giáo hối nhân bất quyện (dạy người không
mệt mỏi), bài thơ Hóa thân là một tác phẩm thơ ca của niềm tin của người thày giáo
đối với học trò của mình trong quá trình đào tạo, trong đời sống và trong tương
lai của đất nước. Niềm tin ấy không ngoài hiện thực học trò sẽ trở thành những
con người đem tài năng và đạo đức phục vụ nhân dân, xây dựng và đưa đất nước
mình sánh vai cùng các quốc gia hùng cường trên thế giới. Góp tâm sức chuẩn bị
cho sự hóa thân ấy của học trò, làm nên hiện thực ấy của đất nước, người thày giáo
tận tụy vì nghĩa lớn là truyền đạt tri thức, uốn nắn nhân cách giúp học trò nên
người có ích. Vì lẽ sống ấy, thày cũng hóa thân mỗi giờ mỗi phút/ Thành một
phần tâm thức của từng em.
NGUYỄN
BỘI NHIÊN
(xem trang mạng: Lê Đức Mẫn - Google)
LÊ THĂNG 258
Tâm trạng: Vui vẻ
Đăng ngày: 03:41 28-01-2010
Quan trọng
Nay xếp lại đống giấy tờ mới ngỡ ngàng thấy lại bài thơ của
thày dạy tiếng Nga năm xưa. thày tên là Lê Đức Mẫn. thày trước đây nguyên là
giám đốc của trung tâm dịch thuật và công chứng bên đại học ngoại ngữ. Bài thơ
mình đọc nhiều lần rồi, càng đọc càng thấy xúc động về hình ảnh những người
thày tâm huyết, hiểu trò, thương trò hết mực.
Êkip dạy tiếng Nga năm đầu tiên (gọi là năm dự bị) cho bọn
mình tại ĐHGT Hà Nội bao gồm thày Ngọc Hùng (trước đây là phó hiệu trưởng
trường đại học ngoại ngữ) Cô Thư (vợ thày Hùng) thày Vị (trước đây là trưởng
khoa Nga đại học ngọai ngữ) và thày Lê Đức Mẫn.
Ngày trước ĐHGT (sau khi mời được các thày cô dạy) đã rất tự
hào vị có thể mời được những người thày có uy tín hàng đầu về tiếng Nga trong
nước như vậy. Các thày cô cũng đã từng đào tạo tiếng Nga cho các vị như TBT
Nông Đức Mạnh khi ông sang Nga học. Hiện tại ai cũng tuổi cao lắm rồi.
Sắp về VN mình tự cảm thấy xấu hổ với các thày cô vì cho đến
hiện tại tiếng Nga của mình vẫn kém quá. Các thày dạy đã có thương hiệu, duy
chỉ có trò là lơ đễnh học hành.
Riêng về thày Mẫn là một người rất giỏi, ông không được đào
tạo bài bản bên Nga nhưng nói và dịch tiếng Nga thì như người bản xứ. Ông là
đồng tác giả dịch thuật cuốn Những người thích đùa đầu tiên tại VN (của Azit
Nexin nhà văn Thổ Nhĩ Kì) chắc nhiều bạn đã đọc.
Mình chép lại toàn bộ bài thơ của thày Mẫn (có cả phần tiếng
Nga nhưng mình chỉ đưa lên phần tiếng Việt). Bài này thày nói thày viết khi
chia tay với sinh viên bên ĐHDL Phương Đông hay Đông Đô gì đó. Cũng là nỗi niềm
chung đối với từng lớp sinh viên đã học qua thày:
THÀY TRÒ TÔI
Thày trò mình dắt nhau qua mấy mùa hoa:
Hoa dâu da ngỡ ngàng phơn phớt trắng
Tưởng dễ quên mà hương hoa thầm lặng.
Nhập hồn chua vào quả đến say lòng.
Rồi hoa trạng nguyên rực rỡ ngang đường,
Cái mũ trạng đỏ au phơ phất gọi.
Mùa thi đến, cả cuộc đời rực chói,
Cứ nôn nao náo nức khắp sân trường.
Ngẩng đầu lên, hoa phượng đỏ chang chang.
Cả khóa học cháy vèo trong sắc lửa.
Thế là hết chia tay là thế đó!
Hoa rụng rồi,sắc đỏ vẫn còn nguyên
Các em trong lòng thày, thày bên các em.
Hoa bằng lăng nở lúc nào không biết.
Nhắm mắt lại vẫn cái màu da diết,
Tím một chiều biền biệt lúc xa nhau
Cái Thắm ngồi bàn đầu, cái Ngọc cứ lau chau.
Cậu Hoàng Vân rụt rè không dám nói.
Vớ vẩn thế, mà giờ sao nhức nhối
Những Quỳnh, Quyên, Hằng, Phúc với .... vân vân...
Đã có một ngày thày giận các em,
Có lúc các em có điều để bụng,
Thôi xí xóa! Giận hờn thì cứ giận
Mà thương thì... trăm giận đổ ra sông
Gậy “Như ý” này của Tôn Ngộ Không
Dĩ bất biến ứng vào vạn biến.
Quê hương còn gian nan, cuộc đời còn lận đận,
Thày tặng mỗi em một chiếc để lên đường.
Thày cũng là người, cũng khóc, cũng buồn thương.
Thày xin các em vòng “Kim cô” thay mũ,
Để đau đáu cứ mỗi mùa hoa nở
Giữa sân trường lại ngó: “Các em ư?”.
Lê Đức Mẫn
20-06-2005
(Tôi tình cờ thấy bài
này trên mạng. Tôi cóp lại và thêm bản tiếng Nga để bạn nào thích thì đọc chơi
và góp ý cho tôi.)
РАССКАЗ ПРЕПОДАВАТЕЛЯ
Все четыре года
мы цветов четыре рода замечали:
Беленькие зауза неприметные, чуть ароматные.
Их забыть легко
ли? Нет, покоя нас те ягоды не дали,
Опьяняют душу как
нельзя сильней, ведь кисловатые.
А цветение второе
первый доктор, такова вот кличка.
Алые лепестки как
будто манят всех вас тут как тут.
Время сессии
экзаменов настало и студент как спичка.
Ясно, что
волнение охватило весь институт.
Нет нет да и мы
поднимем голову, цветы хоафыонгви видно.
Дни студенческие
якобы сожглись дотла на их огне.
Это всë и это
показало, наше расставанье близко,
Но цветы хоафыонгви опадают, красный цвет охран
вполне.
Ну давай
оглянемся, тогда мы друг от друга неразлучны,
Не заметили, что
будет день, когда цветëт бангланг везде.
Хоть закрыв
глаза, мы всë же видим лиловый знак разлуки,
Что напоминает о
прощанья недалëком тихом дне.
Помнить буду Тхам
за первой партой, Нгок, кто мило суетлива,
Вана, парня тихого,
застенчивого пуще девушки.
Эх, пустяк какой,
увы, теперь меня терзает торопливо,
Да ещë Куен,
Куинь, Ханг, Фук и другие однокурсники.
Были дни, когда я
почему-то вами недоволен.
Были дни, когда
утаивали вы уныние своë.
Ну, давай со всем
покончим. Разум наш к тому вполне способен.
В реку зло
выплëкивать мы будем, чтобы было лишь добро.
Я хотел бы в день
прощанья каждому из вас подарок сделать -
Палочку-всевыручалочку, как из легенд, волшебную.
О стране гораздо
бедной и о жизни трудной надо думать,
Помогать народу
ею и давать всем силу дивную.
Человек-то я
земной, умею горевать и плакать тоже.
Я хотел бы
получить от вас терновый дар-венец,
Чтобы мучиться
всегдашней жгучей памятью о вас, похоже,
Во дворе нередко
первых встречных спрашивать “не вы ль ко мне?“.
Перевëл ЛЕ ДЫК МАН
CÔ GIÁO TÔI
(tặng một cô giáo Nga)
Cô giáo ngồi đối diện với tôi,
Kể chuyện nước Nga những ngày trứng nước.
Ngoài đường tuyết bay gió hun hút buốt,
Ở trong
này ấm êm.
Cô kể
chuyện tháng Mười, kể chuyện chiến tranh,
Những
binh đoàn xông lên, những người ngã xuống.
Chuyện
cô kể là chuyện đời có thật,
Chuyện
tôi nghe là chuyện thần tiên.
Sau lưng
tôi là nước Nga đói rách, ưu phiền,
Là tiếng
súng gầm lên quyết sống.
Trước
mắt tôi một con người như nắng,
Giọng
nói như chim.
Có gì ngỡ
ngàng như thể khó tin,
Giữa giá
rét năm xưa với căn phòng ấm cúng,
Giữa lửa
đạn đầy trời với con người nhỏ nhắn,
Giữa
khói pháo cay nồng với nước hoa thơm.
Tôi đến
đây từ đất nước Việt Nam,
Nghe
chuyện thế đêm về không ngủ được.
Cứ trăn
trở cùng câu thơ thao thức:
"Như
trong lòng bão tố có bình yên" (*)
(*) Thơ
Lermontov
LÊ ĐỨC MẪN
МОЯ УЧИТЕЛЬНИЦА
(Посвящаю
моей бывшей русской учительнице)
Предо мной моя учительница,
Сказывающая о прошедших днях тугих.
Во дворе метель, и колет вихрь как спица,
А в зале воздух всё блажен и тих.
Вот Октябрь, мол, вот и воин,
Вот войска в атаку, кто-то вот погиб.
Сказ её весь правда - всяким ценен,
То, что слушал я - вся сказка прошлых лет.
За моей спиной - Русь бедная, лихая,
Где снаряды грохотали за спокойный быт.
Предо мной - учительница обоятельная,
У кого красивый лик и голос, что и мёд.
Что со мной случилось? Нечто спутанное
Между колющим былым и ангельским лицом,
Между бомбами и залом преуютным. Что такое?
Между порохом и существом благим.
Я приехал из далёкого Вьетнама.
После встреч бессоница была густой.
Вся душа преполнена услады гама
Лермонтова - "Будто в бурях есть покой".
Перевёл на
русский ЛЕ ДЫК МАН
CHÂN TRỤ
(Trận quyết đấu giữa Chelsea và M.U. tranh giải
Cup C1 năm 2008 phải phân định bằng đá luân lưu.
Trời mưa. John Terry, đội trưởng Chelsea đã ngã,
bóng đập xà ngang ra ngoài, dẫn đến thất bại của Chelsea).
Tôi ngồi xem trước màn hình.
John Terry cúi đầu chạy.
Tôi quát: - Này mưa to đấy!
Terry không ngoái đầu nghe.
Tôi nhìn bước chạy Terry
Nước tung lên hình bom nổ.
Tôi quát: - Này, sân trơn đó!
Tôi và Terry xa nhau.
Đầu lao tới, chân theo sau.
Kìa, chấm phạt đền trước mắt.
- Chân trụ đâu rồi? - Tôi quát.
John nào biết tôi là ai.
Mưa trên màn hình vẫn rơi.
Cỏ trên màn hình vẫn ướt.
- Hỏng rồi! Thế nào cũng trượt.
John đâu có nghe lời tôi.
Chân phải đã vung lên rồi.
Chân trái chưa tìm chỗ đứng.
Tiếng bình luận viên tức ngực:
- Terry ngã rồi! Terry…!
Bóng dội xà ngang bay ra.
Terry vẫn ngồi thảng thốt.
- Chân trụ hỏng rồi! - Tôi quát.
Dường như Terry có nghe.
Điều này tôi hơn Terry,
Biết chân trụ là chân trái.
Cái chân ngỡ là rất phải
Oai hùng, nhưng ra gì đâu.
Tóc tôi giờ bạc trên đầu,
Mới biết mình là chân phải.
Lặng lẽ vợ mình bên trái.
- Chân trụ đâu rồi, Terry?
LÊ ĐỨC MẪN
7/2008
BIỆT LY
“Biệt ly, nhớ nhung từ đây” (*)
Bài hát tưởng như hát cho người khác,
Trong lời ca có tiếng rơi xào xạc
Chiếc lá khô heo hút cuối mùa đông.
“Đưa người ta không đưa qua sông”, (**)
Cái nghĩa biệt ly bây giờ mới biết.
Câu thơ ấy cứ như là ta viết,
Khi bỗng nghe tiếng sóng ở trong lòng.
Trường cũ giờ này vẫn nắng dênh dang,
Chỉ có lớp học trò là đổi khác.
Các thày vẫn thế thôi, tóc thêm phần bạc,
Tiếng trống trường ngơ ngác vẫn như xưa.
Dường như có ai gọi trường trong mơ,
Cho người “Phương Đông” nhớ người tứ xứ.
Thôi đừng hỏi cho mắt già bớt ứa,
Biết đến hôm nao chúng nó mới thăm trường.
Rồi ta cũng phải quen với cuộc đời thường,
Phải quên vợi cả mình đi để sống.
Đàn rùa con quên cả bờ cát nắng,
Đại dương kia rồi, lạch bạch chúng ra đi.
Gà mẹ lại sinh một đàn gà ri,
Lại đá cầu trong sân, lại ăn quà giữa lớp.
Nhưng sợ lắm, có một ngày bất chợt,
Nao nao lòng người cũ nhớ người xưa.
Thôi, viết thế thôi, viết nữa là thừa.
Các em giữa hộ thày một kho sách vở.
Khi cần đến, gọi “Vừng ơi! Mở cửa!”
Chắc có thày thấp thoáng ở bên trong.
Thày giữ hộ các em kho kỷ niệm trong lòng,
Góc hy vọng màu xanh, góc tình yên sắc đỏ.
Rồi có lúc nhớ một ngày xưa cũ
Thày cũng gọi “Vừng ơi!” – chắc thấy các em về.
Tặng các em trường
“Phương Đông” ngày ra trường.
----------
(*) Bài hát của Dzoãn Mẫn
(**) Thơ Thâm Tâm
LÊ ĐỨC MẪN
01 - 10 - 2002
TẤM BẰNG TỐT NGHIỆP
Tấm bằng này như đoạn đường bến sông,
Thày đưa em đến đây rồi em đi tiếp nữa.
Thày phải quay về thôi, lại chuyến đò dang dở.
Phía trước tấm bằng rộng mở cuộc đời em.
Tấm bằng này như cửa khải hoàn môn,
Phía đằng sau có mồ hôi và nước mắt.
Phía đằng trước nghe như là tiếng hát,
Gọi em hoài, hãy dấn bước đi lên.
Tấm bằng này là chiếc nhẫn tìm duyên,
Thày làm vốn cho em, em mưu cầu hạnh phúc.
Món quà nhỏ thôi, một tấm bìa vuông vức,
Như lòng thày vuông vức thế, nghe em!
Tấm bằng này chỉ viết có tên em.
Tên thày ở đằng sau không ai nhìn rõ chữ.
Cốt sao em nên người, còn thày thì khỏi sợ,
Hạnh phúc vốn lặng thầm, đâu lộ ở nơi tên.
Tấm bằng này là một lá bùa thiêng,
Thày làm phép cho em trước con đường vạn dặm.
Câu thần chú “xin vì
đời…” thiêng lắm.
Phút băng ngàn, vượt mặn nhớ đem ra.
Tấm bằng này là khúc hát chia xa,
Thày đã hát một phần, phần sau em hát nốt.
Nhưng thôi em… dở dang mà lại tốt.
Ta lặng hát trong lòng, khúc hát sẽ theo ta.
LÊ ĐỨC MẪN
CÓ LÚC TÔI NHẦM
Dũng, Thúy, Ngọ, Vinh đâu, đâu những Long, Cư…
Đâu những người tôi quen, đã một thời duyên nợ.
Nhớ tự ngày xưa sân trường xao xác lá,
Nhớ ngày hè về ve lả những trưa say.
Tuổi học kèm tuổi yêu như gió kèm mây,
Các em vào trường, hành lang giăng tiếng hát.
Rồi tuổi làm ăn, tuổi vợ chồng bất chợt
Cuốc các em đi, cỏ dại lút sân trường.
Giờ các em đâu, ai xa, ai gần,
Đứa nào đông con, đứa nào lương thấp.
Cũng có em tôi nhìn còn nhớ mặt,
Có đứa đã chìm trong những chấm vân … vân…
Ấy thế mà có lúc cứ bâng khuâng,
Khi danh vọng, tiền tài vô nghĩa hết.
Lòng chỉ nặng mối tình đời da diết:
Các em càng xa, nỗi nhớ thêm gần.
Hóa ra ngày xưa có lúc tôi nhầm -
Nhất quỉ nhì ma - khổ ơi là khổ!
Giờ thèm lắm có một ngày xưa cũ,
Được ngồi cùng cái lũ … nhất … nhì … ba…
LÊ ĐỨC MẪN
CÂU ĐỐ MỘT VẦN
Đố câu đố gì, đố không phải đố.
Đố câu đố gì học trò phải nhớ.
Đố câu đố gì mẹ cha nhắc nhở.
Đố câu đố gì bạn bè khuyên nhủ.
Đố câu đố gì nếu quên là dở.
Đố câu đố gì có thày không đố.
Đố câu đố gì mới nghe không tỏ.
Đố câu đố gì càng già càng rõ.
Đố câu đố gì không đố mà đố.
Đố câu đố gì “giáng
xong là đổ”.
LÊ ĐỨC MẪN
(không thày đố mày làm
nên)
THIÊN ĐƯỜNG CỦA TÔI
Thiên đường này là bốn bức tường vôi,
Tấm bảng trên cao và ghế bàn trên bục.
Bình thường thôi, mấy ngọn đèn trắng đục,
Một dãy bàn dài ngay ngắn bên trong.
Tôi suốt đời ngồi đây cùng với tháng năm,
Cùng với các em, chúng ta là tất cả.
Không thề thốt, nhưng mà yên lặng quá,
Dưới ánh đèn trăm ánh mắt trầm tư.
Những cuốn sách dày ở giữa chúng ta.
Trang sách mở, những thiên thần đứng dậy.
Hào quang lung linh, sao mà trang trọng vậy,
Hương trầm bay ngào ngạt khắp nơi nơi.
Bỗng ào ào sấm sét và xối xả mưa rơi.
Ta thoát xác nơi đây. Đất trời tinh khiết quá!
Ta bay lên trong thiên đường trí tuệ,
Cả thiên hà chữ nghĩa ở xung quanh.
Ngày mai có em nào trong số các em
Từ thiên đường này lại bước vào trang sách.
Lại một lớp người xin vào đây thoát xác,
Lại ào ào sấm sét với mưa rơi.
Thiên đường này là bốn bức tường vôi.
Tôi ngồi đây suốt một đời lặng lẽ.
Bình thường thôi mà sao yêu đến thế
Tấm bảng … ngọn đèn … bàn ghế ở bên trong.
LÊ ĐỨC MẪN
CHUYỆN CON ONG
Có những ngày tôi thấy những con ong
Bay lạc đến đập đầu vào cánh cửa.
Rơi xuống đất lại bay lên lần nữa,
Lại đập đầu, rơi xuống, lại bay lên.
Ong qua đời trong miệng kiến bâu đen.
Không về tổ, sợ làm ô uế tổ,
Thiêng liêng quá là cuộc đời ong thợ -
Sống vì đời, đến chết vẫn quên.
Tôi cứ bận lòng những chuyện lăn tăn,
Cứ vướng víu những kiếp đời bé mọn,
Cứ đem kể cho học trò những chuyện
Chẳng ra gì, chẳng biết có ai nghe…
LÊ ĐỨC MẪN
CHUYỆN THƯỜNG THÔI
Muốn đi tìm cuốn sách ở trên cao,
Tôi phải ngước nhìn lên chút ít.
Chỉ vậy thôi. Giữa tầng cao chật hẹp
Cuốn sách cần đã hiện giữa tầm tay.
Lại cần thêm cuốn nữa. Tính sao đây?
Tôi phải kiễng chân lên chút đỉnh.
Cuốn sách náu như ông già thiền định
Bỗng trở mình rũ bụi bước ra luôn.
Lại vẫn cần một cuốn sách cao hơn.
Tôi lại phải vươn tay mà với lấy.
Tưởng rất khó mà nhẹ nhàng thế vậy.
Tưởng xa vời mà sách đấy, gần thôi.
Chuyện cuộc đời là vậy, bạn tôi ơi!
Ngước mắt, kiễng chân, vươn tay phía trước.
Cái rất khó mà sao ta đạt được?
Chỉ dướn mình đôi chút nhẹ nhàng thôi!
LÊ ĐỨC MẪN
CÂU CHUYỆN CUỐI CÙNG
Thày tôi hấp hối buổi tàn đông
Lá trút, mây giăng, gió não nùng.
Chúng tôi cả lũ ngồi canh giấc,
Nghe chuyện thày tôi - chuyện cuối cùng.
Chuyện rằng dưới đáy biển mù khơi
Có con trai há miệng ăn mồi.
Trai đâu biết trời đang cuộn bão,
Sóng dựng, non nghiêng, cát dập vùi.
Một hạt cát lọt vào miệng trai
Sắc như dao cạo, nhọn hơn gai.
Xót xa mà đẩy không ra được,
Đau đớn mà kêu - biết thấu ai.
Trai lặng lẽ một đời chịu đựng,
Ngày qua ngày tiết dịch bao quanh,
Cho hạt cát đỡ phần sắc nhọn,
Cho bớt đau, bớt xót trong lòng.
Chất dịch ấy ngày đêm cứng lại,
Sáng long lanh như ánh ban mai.
Trai đâu biết ấy là hạt ngọc
Dâng cho đời sau những chua cay.
Thày đã đi rồi giữa tiết đông
Để lại trong tôi chuyện cuối cùng.
Đời thày nhang nhác đời trai ấy.
Hạt ngọc thày trao - sáng lạ lùng.
LÊ ĐỨC MẪN
20-XI-2006